Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm ở Hoàng Sa

Wednesday, March 6, 2019 // ,
Bauxite VN
07/03/2019

Viết Tuân



Dường như đây là phép thử của Trung Quốc sau những tuyên bố của Mỹ về Biển Đông, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều ở Hà Nội, trưa nay, Trung Quốc đã cho đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Quảng Ngãi, Việt Nam.

Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu Việt Nam có ký một hiệp ước quốc phòng chung với Mỹ, như “Hiệp ước Quốc phòng Chung Philippines – Mỹ 1995”? Liệu Mỹ có tuyên chiến với Trung Quốc để bảo vệ đồng minh của mình? Có lẽ Việt Nam cần có một hiệp ước như thế này với Mỹ.

Tiếng dân


6-3-2019

Các ngư dân trên tàu cá Quảng Ngãi bị chìm đã được cứu vớt an toàn, tiếp tục đánh bắt hải sản.
Khoảng 10h10 ngày 6/3, trong khu vực đảo Đá Lồi thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu cá Quảng Ngãi bị tàu Trung Quốc (BKS 44101) đâm chìm.
Uỷ ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn vừa cung cấp thông tin trên.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2019/03/H1-13.jpg


Tàu cá Việt Nam hoạt động trong ngư trường truyền thống. Ảnh minh họa: Nguyễn Đông/ VNE


Theo Uỷ ban, khi bị đâm chìm, tàu cá Quảng Ngãi chỉ nổi phần mũi, năm ngư dân trên tàu phải bám vào phần nổi này. Sau đó, Văn phòng Uỷ ban đã yêu cầu Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn Hàng hải Việt Nam phối hợp với phía Trung Quốc cứu nạn các ngư dân.

Đến trưa cùng ngày, năm ngư dân đã được một tàu cá khác của Việt Nam cứu vớt an toàn, rời khu vực bị nạn để tiếp tục đánh bắt hải sản.

Việt Nam là nước đầu tiên chiếm hữu, thực thi chủ quyền liên tục qua nhiều giai đoạn lịch sử với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XX, Trung Quốc nhiều lần đánh chiếm Hoàng Sa, đến năm 1974 thì chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo này.

Nguồn:
https://vnexpress.net/thoi-su/tau-ca-viet-nam-bi-tau-trung-quoc-dam-chim-o-hoang-sa-3890720.html

Campuchia vẫn ủng hộ lập trường, hành động của TQ trong vấn đề Biển Đông hiện nay?


Tuy không phải là có bên tranh chấp ở Biển Đông, song Campuchia là nước đã ủng hộ lập trường, chính sách Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông trong suốt những năm qua. Trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 01/2019 của Thủ tướng Hun Sen, Campuchia một lần nữa lại ủng hộ quan điểm và cách thức dẫn dắt của Trung Quốc trong quá trình xây dựng COC.

Campuchia ngả về TQ trong vấn đề Biển Đông. Nguồn: CSIS
“Campuchia hoan nghênh và ủng hộ viễn cảnh về việc tranh thủ hoàn thành COC trong vòng 3 năm do TQ nêu ra”
Theo truyền thông nhà nước Trung Quốc, trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Campuchia Hun Sen (20-23/01/2019), hai bên đã ra Thông cáo báo chí trong đó có nội dung hai bên cảm thấy vui mừng trước tình hình Biển Đông duy trì ổn định và phát triển theo hướng tốt đẹp, kêu gọi các bên liên quan tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), làm sâu sắc hợp tác thiết thực trên biển, thúc đẩy tham vấn về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Campuchia hoan nghênh và ủng hộ viễn cảnh về việc tranh thủ hoàn thành COC trong vòng 3 năm do Trung Quốc nêu ra, mong muốn cùng các bên cùng nhau nỗ lực, duy trì xu thế tích cực tham vấn về COC, tranh thủ sớm đạt được COC trên cơ sở hiệp thương nhất trí, xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị hợp tác.
Trước đó, phát biểu khi tham dự các diễn đàn bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 33 tổ chức tại Singapore từ ngày 13/11 đến ngày 15/11/2018, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã tuyên bố “việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC) sẽ kết thúc trong vòng 3 năm tới (tức là đến năm 2021) nhằm góp phần đảm bảo hòa bình và ổn định tại Biển Đông”. Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ được hưởng lợi trong quá trình đó và COC cũng sẽ có lợi cho tự do thương mại và phục vụ lợi ích của các bên khác, theo tuyên bố của Thủ tướng Trung Quốc.
Hôm 09/01/2019, ba tàu chiến của Trung Quốc đã có chuyến thăm chính thức 4 ngày tới Campuchia. Hai bên loan báo “mục đích chuyến thăm là nhằm thúc đẩy quan hệ và hợp tác quốc phòng, đặc biệt giữa hải quân hai nước”. Các tàu Trung Quốc sẽ không tham gia hoạt động diễn tập quân sự chung nào, song sẽ tham gia vào các hoạt động khánh thành một căn cứ hải quân mới của Campuchia gần đảo Koh Rong. Chuyến thăm của các tàu hải quân Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh xuất hiện nhiều đồn đoán rằng Bắc Kinh đang xây dựng một căn cứ hải quân ở vùng duyên hải tây nam Campuchia. Trung Quốc là một trong những nguồn đầu tư lớn vào Campuchia với các dự án lên đến hàng tỷ USD, trong đó có cảng Sihanoukville, một cảng nước sâu cách thủ đô Phnom Penh khoảng 185km về phía Tây Nam.
“Campuchia nhiều khả năng sẽ tiếp tục ủng hộ TQ, khiến ASEAN gặp khó khăn trong tìm kiếm tiếng nói chung”
Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 49 (AMM-49) của tại Lào hồi tháng 7/2016, các bộ trưởng ASEAN đã không thể ra được tuyên bố chung của ASEAN về vấn đề tranh chấp trên Biển Đông vì Campuchia lúc đó ủng hộ Trung Quốc, phủ quyết mọi điều liên quan đến việc Tòa trọng tài ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc được đưa ra trong dự thảo. Nhiều nước trong ASEAN muốn ra tuyên bố chung của các Bộ trưởng Ngoại giao, trong đó nhắc đến phán quyết của Tòa trọng tài, sự cần thiết của việc thượng tôn pháp luật. Tuy nhiên, Campuchia phản đối đề xuất tuyên bố chung và ủng hộ quan điểm đối lập của Bắc Kinh về việc ASEAN nên đứng bên lề vấn đề Biển Đông , giải quyết tranh chấp qua các biện pháp song phương. Trước đó, tại hội nghị Thượng đỉnh ASEAN năm 2012 ở Phnom Penh, Campuchia nắm chức Chủ tịch luân phiên đã ngăn cản ASEAN ra Tuyên bố chung phản đối nội dung đề cập về Biển Đông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của hiệp hội, ASEAN không ra được một tuyên bố chung.
Đến Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 32 tổ chức tại Singapore hồi tháng 4/2018, Campuchia tiếp tục thể hiện thái độ, quan điểm ủng hộ Trung Quốc khi là nước chất vấn nhiều nhất những điểm liên quan tới Biển Đông trong Dự thảo Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị. Theo các nguồn tin từ Hội nghị, Campuchia yều cầu bỏ nhiều nội dung của Dự thảo, trong đó có các điểm khẳng định “ASEAN bày tỏ quan ngại sâu sắc trước những diễn biến gần đây và đang diễn ra, bao gồm bồi đắp đảo và quân sự hóa ở quy mô lớn” và thay bằng “chúng tôi lưu ý những quan ngại của một số bộ trưởng về việc bồi đắp đảo và việc leo thang các hoạt động trong khu vực, xây đảo nhân tạo, xây dựng tiền đồn và triển khai khí tài quân sự trong vùng tranh chấp…” trong Tuyên bố Chủ tịch. Ngoài ra, Campuchia cũng khẳng định lập trường là “ASEAN không có tranh chấp trực tiếp trên Biển Đông và tranh chấp nên được giải quyết song phương giữa các bên”. Đây cũng chính là điều mà Trung Quốc nêu ra và muốn áp đặt lên các nước ASEAN.
Sở dĩ Campuchia sẽ vấn tiếp tục ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông tại ASEAN nói riêng và trên bình diện quốc tế nói chung là do: Một là, Campuchia hiện đang chịu ảnh hưởng chi phối khác lớn từ Trung Quốc cả về chính trị lẫn kinh tế. Điều này đã được tạo ra trong một quá trình lâu dài dưới những bước đi đầy toan tính của Trung Quốc. Thủ tướng Campuchia Hun Sen hôm 22/01/2019 cho biết, Trung Quốc đã hứa sẽ viện trợ cho đất nước chùa tháp 4 tỷ nhân dân tệ, tương đương 588 triệu USD, trong khoảng thời gian từ 2019 đến 2021. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng hứa, Trung Quốc sẽ nhập khẩu 400 ngàn tấn gạo của Campuchia trong năm nay, tăng kim ngạch thương mại song phương lên 10 tỉ USD vào năm 2023 và khuyến khích các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư nhiều hơn vào Campuchia. Hai là, những diễn biến chính trị nội bộ tại Campuchia, nhất là qua các cuộc bầu cử Quốc hội vừa qua cho thấy Chính quyền của Thủ tướng Hun Sen và đảng Nhân dân Campuchia (CPP) có thể đã phải dựa vào Trung Quốc để duy trì ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo trước đảng đối lập Cứu quốc Campuchia (CNRP). Ba là, Trung Quốc đã ủng hộ mạnh mẽ nhất việc Thủ tướng Hun Sen và CPP tranh cử tại cuộc bầu cử Quốc hội hồi tháng 7/2018, bất chấp những chỉ trích, trừng phạt của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Thậm chí, Trung Quốc đã cấp kinh phí cho Ủy ban bầu cử quốc gia và cử quan sát viên người Trung Quốc trong cuộc bầu cử. Trung Quốc còn cho Campuchia vay 259 triệu USD để xây dựng một tuyến đường vành đai ở thủ đô Phnom Penh của Vương quốc Campuchia. Ngay sau khi kết thúc bầu cử, với phần thắng thuộc về CPP, Trung Quốc đã tuyên bố “luôn luôn ủng hộ nỗ lực của Campuchia trong việc bảo vệ chủ quyền, độc lập và ổn định, và phản đối bất cứ quốc gia nước ngoài nào can thiệp vào chính trị nội bộ Phnom Penh”. “Trung Quốc cam kết sẽ hỗ trợ Campuchia hết mình trong mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển”, tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị.
Có thể nói, Trung Quốc đang là đối tác kinh tế lớn và quan trọng nhất hiện nay của Campuchia. Vì lợi ích, Campuchia đã sẵn sàng ủng hộ Bắc Kinh xây đảo nhân tạo và quân sự hóa trên Biển Đông và Phom Penh bảo vệ Bắc Kinh khỏi sự chỉ trích của ASEAN cũng như cộng đồng quốc tế. Điều này đã và đang trở thành trở ngại không hề nhỉ cho sự đoàn kết, phát triển và tiến bộ của ASEAN,cũng như toàn khu vực.

Bất chấp phạm tội ác chiến tranh, TQ vẫn quyết xâm chiếm đá Gạc Ma của Việt Nam


Dù biết việc sử dụng vũ lực thảm sát bộ đội Việt Nam đang đóng trên đá Gạc Ma là phạm tội ác chiến tranh và dùng vũ lực xâm lược lãnh thổ nước khác là vi phạm Hiên chương Liên hợp quốc, song Trung Quốc vẫn quyết xâm chiếm đá Gạc Ma của Việt Nam nhằm phục vụ mưu đồ bá chủ và độc chiếm Biển Đông.

Mưu đồ của Trung Quốc đối với đá Gạc Ma
Trung Quốc đã dòm ngó quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam từ lâu. Từ năm 1909, Trung Quốc bắt đầu cử phái bộ từ Quảng Đông thăm dò một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đó là thời điểm đánh dấu Trung Quốc có những hành động thực tế nhòm ngó Hoàng Sa và sau này là Trường Sa, mở đầu cho kế hoạch nuốt trọn các đảo. Vào năm 1956, Pháp buộc rút hết khỏi Việt Nam sau khi ký Hiệp định Genève tháng 7/1954. Trong bối cảnh Việt - Pháp đang có sự bàn giao, khoảng trống bố phòng ở biển Đông trở thành cơ hội tốt để Trung Quốc chiếm một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1974, Trung Quốc lại lựa chọn thời điểm để “ra tay”, gây nên trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974 khi được Mỹ “bật đèn xanh”. Sự kiện này có liên quan mật thiết đến chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng thống Mỹ Nixon năm 1972.  Nếu không có cái bắt tay giữa Mao Trạch Đông và Nixon thì Trung Quốc không dám có hành động đánh chiếm Hoàng Sa khi đó do chính quyền Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Sau sự kiện Campuchia, chúng ta bị Mỹ cấm vận và ASEAN quay lưng. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc thì đang trong tình trạng rất xấu sau chiến tranh biên giới 1979. Việt Nam gần như bị cô lập trên trường quốc tế. Chỗ dựa duy nhất của Việt Nam lúc đó là Liên Xô thì đang khủng hoảng trầm trọng.
Đáng chú ý, trong giai đoạn những năm 80, tình hình Việt Nam rất khó khăn, lực lượng hải quân mỏng. Tàu thuyền chủ yếu do Trung Quốc viện trợ hoặc là chiến lợi phẩm từ thời Việt Nam Cộng hoà đã quá cũ. Lực lượng đi ra đảo dù đã chuẩn bị nhưng tàu bị hỏng máy không thể đi được, nên hải quân gặp khó khăn trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc. Về không quân, các máy bay Mig của ta không bay được tới Trường Sa và dù có máy bay Su-22 nhưng chỉ bay ra hoạt động khoảng thời gian rất ngắn nên khả năng tác chiến rất hạn chế. Trong khi Trung Quốc có các tàu chiến lớn, số lượng đông và hỏa lực rất mạnh. Đồng thời lúc đó chúng ta còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam.
Không những vậy, thời điểm tháng 3/1988, Trung Quốc biết được Liên Xô đang lộn xộn và không quan tâm nhiều đến vấn đề ở Biển Đông. Và có thể có một chỉ dấu nào đó từ phía Liên Xô khiến cho Trung Quốc củng cố thêm quyết tâm phải đánh vào thời điểm 1988. Những gì diễn ra sau đó chứng tỏ âm mưu của Trung Quốc đã được tính toán cẩn thận. Cho dù, khi đó Hiệp ước hữu nghị hợp tác năm 1978 Việt Nam ký với Liên Xô vẫn còn có hiệu lực. Chính vì vậy, Trung Quốc đã tìm mọi cách xâm chiếm các đảo, đá của Việt Nam trong năm 1988.
Đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng trái phép các bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Subi, Huy Gơ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Cụ thể, ngày 31/1/1988 chiếm bãi đá Chữ Thập; ngày 18/2/1988 chiếm bãi Châu Viên; ngày 26/2/1988 chiếm bãi Ga Ven; ngày 28/2 chiếm bãi Tư Nghĩa. Trước tình hình Trung Quốc chiếm đóng hàng loạt đảo trên Trường Sa, Việt Nam đã khẳng định chủ quyền trên các đảo còn lại trên các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trung Quốc, sau khi chiếm hàng loạt đảo, đầu tháng 3/1988 đã huy động lực lượng của hai hạm đội tiếp tục mở rộng lấn chiếm, tăng số tàu chiến từ 9 lên 12 tàu gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Tại các đảo Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, hải quân Việt Nam xây dựng thế trận phòng thủ nhằm bước đầu ngăn chặn việc mở rộng phạm vi chiếm đóng của Trung Quốc ra các đảo lân cận. Xác định Trung Quốc còn tiếp tục tranh chấp chủ quyền hải đảo, chiếm bãi san hô nổi hoặc chìm xen kẽ với đảo của Việt Nam, kể cả có xung đột, Việt Nam chủ trương cấp tốc đưa lực lượng đi đóng giữ các đảo trong ba năm (1988-1990). Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh cho các tàu gấp rút đưa bộ đội, công binh ra xây dựng đảo, tiến hành chiến dịch Bảo vệ chủ quyền 1988 (CQ-88). Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân họp nhận định, Trung Quốc sẽ chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông kinh tuyến 1150. Đặc biệt là chiếm giữ các bãi Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và trên Biển Đông.
Sáng ngày 14/3/1988, 4 tàu chiến Trung Quốc tiến đến bãi Gạc Ma. 6 giờ sáng Trung Quốc đổ bộ 40 quân lên đảo, xông lên giật cờ Việt Nam cắm trên đảo. Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đang bảo vệ cờ Tổ quốc đã bị đâm bằng lưỡi lê và bắn chết gồm hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh, thiếu úy Trần Văn Phương… Lực lượng công binh, hải quân dù tay không vẫn cương quyết bảo vệ cờ. Trung Quốc đã huy động hai chiến hạm bắn thẳng vào lực lượng bảo vệ đảo và tàu vận tải 604 đang neo đậu. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và một số chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Tàu 604 bị chìm.
Tại đảo Cô Lin (cách Gạc Ma 3,5 hải lý) và Len Đao, Trung Quốc tấn công quyết liệt ngay từ 6 giờ sáng ngày 14/3, bắn cháy tàu HQ 505 và sát hại nhiều chiến sĩ đang giữ đảo. Ở hướng Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14/3, tàu chiến Trung Quốc bắn cháy tàu HQ 605 của Việt Nam.
Cuộc thảm sát kéo dài 28 phút đã gây thiệt hại nặng cho Việt Nam, 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 chiến sĩ hy sinh, 11 chiến sĩ bị thương và 74 chiến sĩ mất tích. Sau này Trung Quốc trả lại 9 chiến sĩ bị bắt. Số còn lại được xem là đã hy sinh.
Vị trị địa chiến lược trọng yếu của đá Gạc Ma
Trung Quốc lựa chọn Gạc Ma vì Trung Quốc muốn có một pháo đài ở trung tâm Biển Đông. Bãi đá Gạc Ma gần như nằm ở giữa Việt Nam và Philippines, ở vị trí đó Việt Nam muốn lấy lại cũng rất khó khăn vì xa bờ. Trung Quốc muốn ở một vị trí an toàn và với việc chiếm được Hoàng Sa, họ có được thế gọng kìm tam giác, từ Hải Nam xuống Hoàng Sa và Gạc Ma để khống chế Biển Đông. Không những vậy, đá Gạc Ma cách đá Cô Lin 3,6 hải lý, cách đá Len Đao 6 hải lý giữ vị trí quan trọng, đánh dấu đầu mút phía Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn. Nếu để Trung Quốc chiếm được “sẽ khống chế đường qua lại của ta trong việc tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa”.
Ngoài ra, vị trí đá Gạc Ma rất hiểm yếu, nó gần bờ biển và thềm lục địa Việt Nam, gần nơi Việt Nam khai thác dầu khí và tiến hành các hoạt động kinh tế của mình. Việc Trung Quốc muốn xây dựng các “đảo nổi” nhân tạo nhằm mục tiêu pháp lý là muốn mở rộng vùng biển để tạo thành chồng lấn, biến vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp. Đặc biệt, Trung Quốc muốn mở rộng tất cả các thực thể trong quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa ra tới những vị trí xa nhất, thậm chí có những bãi cạn không nằm trong phạm vi quần đảo đó, Trung Quốc vẫn muốn xây dựng để sử dụng vạch đường cơ sở bao bọc toàn bộ theo tiêu chuẩn quốc gia quần đảo. Chính vì thế, nếu điều này xảy ra, Trung Quốc sẽ  khống chế toàn bộ hàng hải đi qua khu vực này.
Việc Trung Quốc đánh chiếm bãi đá Gạc Ma còn là một bước đi cụ thể cho dã tâm “đường lưỡi bò” trên Biển Đông. Gạc Ma nằm ở vị trí phía Tây của quần đảo Trường Sa và là một trong những bãi đá xung yếu. Chiếm được Gạc Ma sẽ quản lý được vùng biển phía Tây. Nếu chiếm được bãi đá này thì với tiềm lực mạnh, Trung Quốc sẽ dễ dàng khống chế được cả vùng biển xung quanh. Ngoài ra, chiến lược quân sự mà Trung Quốc đang đưa ra không chỉ ở quần đảo Hoàng Sa mà ngay ở Gạc Ma, là kiểu “gặm nhấm”. Thể hiện rõ nhất là sau khi chiếm đóng trái phép của Việt Nam, nước này không vội đánh chiếm các đảo khác, phần vì gặp phải sự phản đối của Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đã lén lút cho bồi đắp, xây dựng những công trình nhân tạo và “khi Việt Nam phát hiện ra thì mọi việc đã rồi”.
Trung Quốc đã biến đá Gạc Ma của Việt Nam thành pháo đài kiên cố trên Biển Đông
31 năm sau khi sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép Gạc Ma và 6 bãi đá trong khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc lại một lần nữa bất chấp luật pháp và sự phản đối của dư luận quốc tế, đang tìm cách cải tạo, mở rộng lấn chiếm quy mô lớn, biến rạn san hô ngầm này trở thành đảo nhân tạo với ý đồ từng bước thâu tóm và độc chiếm Biển Đông.
Đá Gạc Ma là rạn san hô nằm ở đầu phía Tây Nam của cụm Sinh Tồn trong quần đảo Trường Sa, thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa. Nằm cách rạn gần nhất là đá Cô Lin hơn 3km về phía Đông Nam và được bao quanh bởi vành đai san hô trắng, phần lớn bãi đá này chìm dưới mặt nước. Sau khi sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép bãi đá từ năm 1988, Trung Quốc đã từng bước cải tạo, xây dựng trên bãi đá này những cấu trúc vững chắc và biến nơi này thành một trong những tiền đồn quân sự phi pháp của họ trên Biển Đông.
Kể từ cuối tháng 02/2014, khi quân đội Trung Quốc tiến hành các hoạt động cải tạo, mở rộng và lấn chiếm với quy mô lớn chưa từng có. Hàng chục máy xúc, máy ủi, cần cẩu với cả tá tàu bè lớn nhỏ ngày đêm bơm hút một lượng cát khổng lồ lên Gạc Ma. Hiện tại, phía Trung Quốc đã tôn tạo, xây dựng trên diện tích 13,2 ha ở bãi đá Gạc Ma. Bên cạnh đó, họ còn nạo vét luồng theo hướng Bắc - Nam với chiều dài 900 - 1.000 m, rộng khoảng 250 - 400 m thuận tiện cho các tàu trọng tải 4.000 tấn ra vào âu tàu phía trong bãi và cập cảng phía Bắc. Các công trình của Trung Quốc được xây dựng cấp tập từ giữa năm 2013, đến nay đã hoàn tất và đưa vào sử dụng, gồm: Tòa nhà kiên cố cao 26 - 27m gồm 8 tầng, tại 4 góc nhà đều bố trí các lỗ châu mai - lỗ bắn. Trên nóc nhà bố trí 2 ra đa hàng hải, 2 ăng ten parabol và 1 thiết bị đảm bảo bay có quả cầu che, cùng một số thiết bị thông tin liên lạc khác. Trên tầng 6 của tòa nhà, phía Trung Quốc lắp ra đa điều khiển hỏa lực, hệ thống kính ngắm quang học hiện đại. Tầng 5 của tòa nhà được lắp 2 bệ pháo 30 mm (7 nòng) và tầng 1 lắp 2 bệ pháo 76 mm. Ngoài hệ thống súng pháo trên nhà 8 tầng, còn có 1 vị trí hỏa lực lắp đặt pháo 76 mm, pháo 30 mm quay hướng Đông Bắc luôn có quân nhân trực canh 24/24 trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và họ chỉ chui ra khỏi bệ pháo khi đổi ca trực. Trung Quốc còn xây dựng trái phép 2 tháp ra đa đối không - đảm bảo bay cho máy bay, 1 tháp viễn thông thu phát sóng 4G cao khoảng 50 m, 2 cột điện gió cùng hệ thống pin năng lượng mặt trời, 1 ngọn hải đăng cao 50m, bán kính chiếu xa khoảng 40 km... Hiện, họ đã hoàn tất và đưa vào sử dụng trái phép 1 bãi đáp trực thăng ở phía Đông Nam với diện tích 33 x 33 m, 1 cầu cảng ở phía tây bắc của bãi với chiều dài khoảng 100 m và đặc biệt là xây dựng 1 bến nghiêng rộng 20 - 30m, các loại xe vận tải, xe bánh xích, xe bánh lốp dễ dàng cơ động lên đảo từ những tàu vận tải đổ bộ, chở quân...
Đáng lo ngại hơn, những gì đang diễn ra ở Gạc Ma chỉ là một phần điển hình trong kế hoạch rộng lớn, tham vọng và phi pháp của Trung Quốc đối với Biển Đông. Trung Quốc cũng đang tiến hành cải tạo, lấn chiếm quy mô lớn ở các đá Châu Viên, Huy Gơ, Gia Ven và Xu Bi... Đây thực sự là những nguy cơ đe dọa đối với hòa bình, ổn định của cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á.
Những hoạt động ngang ngược trên của Trung Quốc không chỉ vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), vi phạm luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982), mà còn tạo ra một thực trạng mới hết sức nguy hiểm ở Trường Sa và Biển Đông. Một khi Trung Quốc hoàn thành việc mở rộng lấn chiếm và bố trí lại lực lượng của họ ở khu vực, sẽ tạo ra một tương quan lực lượng mới rất nguy hiểm với ưu thế vượt trội về mọi mặt thuộc về Trung Quốc.
Về địa chiến lược, Trường Sa nói chung và Gạc Ma nói riêng có vị trí hết sức đắc địa. Gạc Ma là nút thắt của cả cụm đảo Sinh Tồn và cụm đảo phía Bắc (Song Tử); nằm án ngữ trên các tuyến hải trình ra Trường Sa, và đi qua khu vực biển Đông, rất gần với bờ biển Việt Nam (chỉ khoảng 250 km về phía Đông), nơi chúng ta đang có rất nhiều cơ sở quan trọng về kinh tế, xã hội, và an ninh - quốc phòng. Gạc Ma và nhất là đá Châu Viên, rất gần với khu vực bãi Tư Chính - Vũng Mây và khu vực các nhà giàn DK 1 của Việt Nam - nơi có những tiềm năng to lớn về dầu khí và tài nguyên khoáng sản.
Về bố trí lực lượng, hiện nay các bên liên quan như Việt Nam, Malaysia, Philippines hay Đài Loan chỉ bố trí ở khu vực này một số lực lượng đồn trú quy mô nhỏ và các cấu trúc hiện tại chủ yếu để phòng thủ, bảo vệ là chính. Còn với những gì mà Trung Quốc đang làm, họ sẽ xác lập các căn cứ không quân, hải quân, thông tin, hậu cần... hỗn hợp ở Gạc Ma và các điểm đảo khác.
Trung Quốc sẽ chiếm thế áp đảo hoàn toàn bởi rõ ràng Trung Quốc đang áp dụng tư duy tấn công trong việc xây dựng, lấn chiếm. Một khi hoàn thành, những căn cứ này đủ lớn để bố trí các lực lượng tấn công mạnh. Điều này cũng sẽ giúp Trung Quốc khắc phục được những điểm yếu trước đây như tham vọng lớn nhưng bố trí lực lượng không phù hợp, cải thiện về căn bản khâu tiếp liệu, vận tải, phối hợp tác chiến không biển... Trung Quốc sẽ nâng cao đáng kể khả năng kiểm soát cả trên không, trên biển và dưới mặt nước.
Về luật pháp quốc tế, Trung Quốc đang ngụy biện cho rằng “đảo Gạc Ma” là nơi có đủ khả năng duy trì sự sống, có quy chế như những đảo tự nhiên khác và họ sẽ căn cứ vào đó để vẽ đường cơ sở, tuyên bố lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế theo như quy định tại UNCLOS 1982. Nếu điều đó xảy ra, họ sẽ dần tạo lập một cơ sở pháp lý mới cho cái gọi là đường lưỡi bò phi lý hiện nay của họ, ôm trọn toàn bộ biển Đông.
Về phối hợp quân sự - dân sự, khi hoàn thành, Trung Quốc hoàn toàn có thể thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không mới trên vùng biển phía Nam của Biển Đông - điều mà hiện nay họ chưa làm được, đưa tàu bè dân sự, ngư dân, thậm chí là giàn khoan và các phương tiên khác vào sâu trong vùng biển, thềm lục địa phía Nam của Việt Nam... Tình hình khi đó sẽ trở nên cực kỳ phức tạp.
Về ngoại giao, tương quan lực lượng mới sẽ giúp Trung Quốc có được những lợi thế lớn trên bàn đàm phán với các nước ASEAN. Việc Trung Quốc cố tình trì hoãn, dây dưa kéo dài quá trình đàm phán COC là muốn chờ đợi sau khi hoàn thành các cơ sở này, họ sẽ có thế lực mới để “mặc cả” với ASEAN.
Với những ưu thế như vậy, nên Trung Quốc không thể dễ dàng từ bỏ tham vọng ở Biển Đông. Nhìn lại những hành động của Trung Quốc trong những năm qua, có thể thấy ngay từ rất sớm, Trung Quốc đã có những kế hoạch sâu xa và tính toán rất kỹ nhằm từng bước thôn tính Biển Đông.
Việt Nam và các bên liên quan cần phối hợp bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực
Trước tình hình trên, chúng ta cần phải có hành động sớm và kiên quyết phản đối những việc làm sai trái, đơn phương và có tính khiêu khích của Trung Quốc.
Về pháp lý, bên cạnh việc tiếp tục đưa ra các bằng chứng pháp lý thuyết phục, chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cần làm sáng tỏ việc Trung Quốc đổi trắng thay đen, biến đá thành đảo. Điều này sẽ không có giá trị và không thể áp dụng UNCLOS 1982 cho các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng.
Về tuyên truyền, cần lên tiếng càng sớm, càng mạnh mẽ càng tốt, cần vận động các nước trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt là ASEAN cùng nhau lên tiếng phản đối.  Không thể để Trung Quốc tạo sự đã rồi để đe dọa an ninh của cả khu vực. Ngoài ra, ta cũng cần tích cực tuyên truyền phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) để khẳng định các thực thể Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp ở Trường Sa của Việt Nam là đá.
Về ngoại giao, cần phối hợp tốt với các nước ASEAN để đẩy nhanh việc đàm phán về COC; tiếp tục giương cao ngọn cờ pháp lý và chính nghĩa, kêu gọi các bên, đặc biệt là Trung Quốc, triển khai đầy đủ và hiệu quả DOC, đặc biệt là điều 5 của DOC - một văn kiện mà Trung Quốc đã chính thức cam kết.
Kết luận
Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu sử dụng vũ lực xâm chiếm đá Gạc Ma của Việt Nam nhằm hiện thức hóa ý đồ độc chiếm Biển Đông. Hành động này của Trung Quốc không chỉ vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), vi phạm luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982), mà còn tạo ra một thực trạng mới hết sức nguy hiểm ở Trường Sa và Biển Đông.

Bản tin Biển Đông ngày 06/03/2019


Bản tin Biển Đông ngày 06/03/2019.

Máy bay B52 của Mỹ bay qua các đảo tranh chấp ở Biển Đông
Ngày 5/3, ABC News đưa tin, hai máy bay ném bom B-52 Stratofortress cất cánh từ căn cứ không quân Andersen, Guam ngày 4/3 để tham gia các hoạt động huấn luyện thường kỳ. Thông báo của Lực lượng không quân Thái Bình Dương của Mỹ cho biết, một trong hai chiếc máy bay đã thực hiện huấn luyện gần Biển Đông trước khi trở lại Guam, chiếc còn lại tham gia hoạt động phối hợp với Hải quân Mỹ và lực lượng phòng vệ trên không và trên biển của Nhật Bản tại khu vực gần Nhật Bản. Thông tin cho biết, giống như các hoạt động tự do hàng hải của Hải quân Mỹ ở Biển Đông, các hoạt động của Không quân Mỹ cũng nhằm khẳng định khu vực này là không phận quốc tế, khiến cho Trung Quốc phải bực mình.
Philippines lo ngại Hiệp ước phòng thủ với Mỹ có thể đẩy nước này vào một cuộc chiến ở Biển Đông
Ngày 5/3, Japan Times đưa tin, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana cho rằng Mỹ có khả năng liên quan đến một cuộc chiến tranh tại Biển Đông hơn là Philippines nhưng chính Philippines sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến như vậy chỉ vì Hiệp ước phòng thủ lẫn nhau năm 1951 giữa hai nước. Bộ trưởng Lorenzana cho rằng cần phải xem lại Hiệp ước này để làm rõ những mập mờ có thể gây hỗn loạn và nhầm lẫn trong một cuộc khủng hoảng. Ông Lorenzana nhắc lại việc năm 1995, Trung Quốc hung hăng chiếm giữ một đảo đá Philippines yêu sách, khi đó “Mỹ đã không ngăn chặn”. Ông Lorenzana nhận định, các lực lượng của Mỹ đang đẩy mạnh cái gọi là tự do hàng hải ở vùng biển chiến lược, có vẻ như sẽ dẫn đến một cuộc xung đột vũ trang hơn là Philippines. Tuy nhiên, trên cơ sở Hiệp ước phòng thủ lẫn nhau giữa hai nước, Philippines đương nhiên sẽ bị liên quan. Đây là điều mà ông Lorenzana không trông chờ và không mong muốn.
Cựu Ngoại trưởng Philippines hoan nghênh cam kết Mỹ bảo vệ Philippines ở Biển Đông
Ngày 6/3, Inquirer đăng bài viết của cựu Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario, hoan nghênh phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ về việc Mỹ sẽ bảo vệ Philippines trong trường hợp tàu và máy bay của Philippines bị tấn công vũ trang ở Biển Đông. Ông Del Rosario cho rằng đây là một trong những phát biểu quan trọng nhất trong nhiều thập kỷ kể từ khi Hiệp ước phòng thủ lẫn nhau giữa hai nước được ký kết năm 1951. Cần phải coi đây là tuyên bố tích cực, đáng tin cậy của chính sách đối ngoại Mỹ về khẳng định sự tuân thủ các quy định của luật pháp. Bên cạnh đó, Philippines cần phối hợp với Mỹ trong việc vạch ra giới hạn đỏ ở bãi cạn Scarborough để có thể ngăn chặn mọi kế hoạch xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hóa khu vực này của Bắc Kinh. Theo ông Del Rosario, điều này mang tính cấp bách vì một mặt, Bắc Kinh coi Trường Sa, Hoàng Sa và bãi cạn Scarborough là tam giác an ninh ở Biển Đông để triển khai sức mạnh hải quân; mặt khác, bãi cạn Scarborough chỉ cách bờ biển gần nhất của Philippines có 124 hải lý. Do vậy, với việc Mỹ là đồng minh hiệp ước duy nhất, Philippines cần phải công nhận ý nghĩa và tầm quan trọng của liên minh này, phải nhận thấy Philippines cần tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của mình. Ông Del Rosario cho rằng việc xây dựng năng lực quân đội Philippines mạnh hơn, nhanh hơn chỉ có thể được thực hiện với sự trợ giúp và cam kết của đồng minh hiệp ước này.
Trung Quốc giảm chi tiêu quốc phòng nhưng không có nghĩa căng thẳng sẽ được dịu bớt
Ngày 5/3, trang NDTV dẫn tin từ AFP cho biết, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khóa 13 khai mạc ngày 5/3, Trung Quốc công bố ngân sách quốc phòng năm 2019 sẽ chỉ tăng 7,5% (1,19 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 177,6 triệu USD), thấp hơn năm 2018 do nước này đang phải đối mặt với suy thoái kinh tế. Theo trang thông tin của Quân đội Trung Quốc, phát biểu tại cuộc họp báo trước kỳ họp ngày 4/3, Người phát ngôn Phiên họp thứ hai Quốc hội khóa 13 Zhang Yesui khẳng định, Trung Quốc duy trì tỷ lệ tăng chi tiêu quốc phòng hợp lý nhằm bảo đảm an ninh quốc gia và tiến hành cải cách quân đội theo kiểu của Trung Quốc. Ông Zhang cho rằng, việc liệu một quốc gia có phải là mối đe dọa quân sự với các nước khác hay không không phải do nước đó tăng chi tiêu quốc phòng mà là do chính sách ngoại giao và quốc phòng mà nước đó thực hiện. Việc Trung Quốc chi tiêu quốc phòng hạn chế chỉ nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, không đe dọa đến nước nào. Tuy nhiên, trang NDTV nhận định, việc Trung Quốc tăng chi tiêu quân sự năm 2019 có vẻ vẫn khiến các nước láng giềng Châu Á lo lắng. Bắc Kinh hiện đang nỗ lực để cung cấp cho lực lượng Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) các thiết bị phần cứng tối tân, mạnh tay chi cho máy bay chiến đấu tàng hình, tàu sân bay và các loại vũ khí khác; đồng thời đẩy mạnh biện pháp chống lại các phong trào độc lập ở Đài Loan và tiếp tục khẳng định yêu sách lãnh thổ rộng lớn ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Theo CNBC ngày 5/3, Timothy Heath, nghiên cứu viên quốc phòng quốc tế tại cơ quan nghiên cứu Rand Corporation của Mỹ, cho rằng, mức gia tăng chậm trong chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc không có nghĩa là căng thẳng quân sự giữa Bắc Kinh với Washington được dịu bớt. Cho rằng con số chi tiêu được nêu ra không quan trọng bằng việc số tiền đó sẽ được sử dụng để làm gì, ông Heath dự đoán ngân sách quốc phòng năm 2019 của Trung Quốc có khả năng sẽ được dùng để tăng tiềm lực quân sự Trung Quốc nhằm “thách thức sức mạnh Mỹ ở Châu Á”. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc sẽ có thêm các loại vũ khí sát thương, tăng khả năng hoạt động chung và tầm với lớn hơn, và như vậy sẽ làm trầm trọng thêm căng thẳng an ninh.

Powered by Blogger.