Lập trường phi pháp của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Quần đảo Hoàng Sa ở vào khoảng giữa vĩ tuyến 16° - 17° và kinh tuyến 111° - 113° Đông, cách Tam Á, Hải Nam khoảng 350 km. Toàn thể quần đảo Hoàng Sa có diện tích khoảng 15.000 km², gồm trên 30 đảo nhỏ và những hòn đá nhô khỏi mặt nước, chia ra làm hai nhóm chính: Nhóm Đông (Amphitrite) mà đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island), dài không quá 4 km, rộng khoảng 2 - 3 km; Nhóm Tây (Crescent) mà đảo lớn nhất mang tên Hoàng Sa (Pattle Island), diện tích khoảng 0,3 km². Đảo Phú Lâm cách đảo Hoàng Sa khoảng 87 km.
Quần đảo Trường Sa ở vào khoảng vĩ tuyến 12° Bắc và kinh tuyến 111° Đông, cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 km, cách Philippin khoảng 300 km và cách Trung Quốc khoảng 1.500 km. Toàn thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000 km², gồm trên 100 đảo và những hòn đá nhô lên mặt biển, trong đó có khoảng 26 đảo hoặc đá chính.
Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam
Người dân Việt Nam đã phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời. Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng minh quan hệ chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn, vào thế kỷ thứ XVII. Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, các triều đại kế tiếp trị vì nước Việt Nam đã thực sự nắm chủ quyền trên hai quần đảo này mà không có nước nào cạnh tranh và coi các hải đảo này hoàn toàn thuộc lãnh thổ của Việt Nam.
Mãi đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, trước sự đe doạ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Hoa mới bắt đầu chú ý tới quần đảo Hoàng Sa và sau này, trong những năm 1928, 1932, biểu hiện ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp - chỉ biểu hiện ý đồ chứ không có hành động chiếm hữu thực sự. Cũng cần nhấn mạnh là hồi đó, cho đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất, đòi hỏi của Trung Quốc chỉ nhằm vào quần đảo Hoàng Sa chứ không đả động đến quần đảo Trường Sa.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách là quốc gia kế thừa, Pháp không hề khước từ chủ quyền trên hai quần đảo, tiếp tục khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của Trung Quốc. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chiếm các hải đảo trên dãy Hoàng Sa và Trường Sa để làm căn cứ quân sự. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, lợi dụng danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật Bản, năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (Itu Aba) của quần đảo Trường Sa, trong khi đó, Pháp đóng ở quần đảo Hoàng Sa (thuộc Nhóm Tây của quần đảo Hoàng Sa) và một số đảo khác của quần đảo Trường Sa. Chính phủ Bảo Đại chính thức thay thế Pháp ở quần đảo Hoàng Sa năm 1950 và chính quyền Ngô Đình Diệm ở quần đảo Trường Sa năm 1956.
Sau khi chiến thắng ở lục địa, chính quyền Bắc Kinh thay thế quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) năm 1956, trong khi đó Đài Loan vẫn tiếp tục thường xuyên có mặt ở đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Năm 1974, quân đội Bắc Kinh đã sử dụng vũ lực, loại quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hoà ra khỏi quần đảo Hoàng Sa và năm 1988, đổ bộ lên một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Lập trường phi pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Chiếm hữu thực tế: Trong khi đòi hỏi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc luôn luôn khẳng định rằng các hải đảo này là đất đai của họ đã từ lâu đời. Nói khác đi, Trung Quốc có danh nghĩa thụ đắc chủ quyền (titre d’acquisition) trước Việt Nam. Để chứng minh, nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn nhiều tác phẩm lịch sử, tài liệu địa lý, di vật khảo cổ.., trong đó có những tài liệu từ đời Tam Quốc, đời nhà Tống, đời nhà Nguyên, nhà Thanh. Tuy nhiên, những tài liệu đó không những thiếu chính xác mà còn không chứng minh được quan hệ chủ quyền của nhà nước Trung Quốc đối với hai quần đảo.
Qua những tường thuật của các tác giả, người ta không rõ những hải đảo được kể ra có thuộc hai quần đảo Hoàng Sa hoặc Trường Sa hay không, hay chỉ là những đảo kế cận đảo Hải Nam, bởi vì những hải đảo đó mang nhiều tên khác nhau và địa điểm so với bờ biển cũng không rõ. Những tài liệu ấy đôi khi trái ngược với nhiều nguồn tài liệu địa dư khác của chính Trung Quốc, mô tả vương vực phía Nam Trung Quốc chấm dứt bởi đảo Hải Nam. Ngay cả những tài liệu nói tới một số sự kiện lịch sử tương đối rõ hơn để chứng minh một số biểu hiện chủ quyền như: Cuốn sách của Vũ Kinh Tổng Yếu về chính sách quốc phòng đời Tống, có lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông (1023-1053) nói đến cái gọi là việc tuần binh hải quân từ Quảng Đông tới Hoàng Sa; Việc vua nhà Nguyên (thế kỷ XIII) ra lệnh cho một nhà thiên văn nổi tiếng là Quách Tử Kính đo thiên văn ở trên lục địa Trung Quốc và cả trên bốn bể, nghĩa là hàm ý trên cả các đảo thuộc Hoàng Sa; Cuộc viễn chinh do Sử Bật chỉ huy đi đánh Giava năm 1293 có ghi trong Nguyên sử, đặt cả vùng Hoàng Sa dưới sự tuần binh; Việc tướng Ngô Thăng thuộc triều Thanh, chỉ huy tuần binh các vùng biển trong thời gian 1710 - 1712 được diễn dịch ra là bao gồm cả vùng Hoàng Sa… cũng chỉ xác nhận Trung Quốc biết sự hiện hữu của quần đảo Hoàng Sa thôi chứ không minh chứng được sự chiếm hữu, bởi vì những tài liệu đó quá rời rạc, lẻ tẻ, hơn nữa rất mập mờ, nếu không nói là hoàn toàn thiếu cơ sở nghiêm túc.
Theo luật quốc tế, những phát hiện hoặc kiến thức về địa dư, kể cả sự lui tới của những dân chài lưới trên hải đảo, chưa phải là một yếu tố đủ để chứng minh quan hệ về chủ quyền trên đất đai khám phá ra. Muốn cho sự phát hiện có một hiệu quả pháp lý, nó phải được tiếp theo bằng một sự chiếm hữu thực sự (occupation effective) kèm theo một ý chí biểu hiện chủ quyền bằng những hành vi của một cơ quan quyền lực nhà nước tối cao chứ không chỉ đơn thuần là một hành động tư nhân.
Trái với Trung Quốc, Việt Nam đã đưa ra nhiều chứng cớ lịch sử chứng minh một cách vững chắc rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc đất đai của mình. Ban đầu, các quần đảo có tên nôm là Bãi Cát Vàng. Theo ông Lưu Văn Lợi, tên Cát Vàng có ghi trên bản đồ của Đỗ Bá Công Đạo và tác giả người Anh Gutzlaff trong một bài đăng trên tạp chí Hội Địa dư Luân Đôn năm 1849 nhan đề Địa dư của Triều đại Nam Kỳ cũng gọi là Katvàng. Những tài liệu lịch sử của Việt Nam đã ghi chép về các hải đảo này từ đời Lê Thánh Tông (cuối thế kỷ XV). Bản đồ thời Hồng Đức thế kỷ XVII cũng có ghi. Phía Việt Nam không những đưa ra các tài liệu về sự phát hiện đất đai và hiểu biết về địa lý, mà còn chứng minh rằng nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và quản lý hành chính thực sự hai quần đảo ấy.
Tài liệu đầu tiên xác nhận chủ quyền Việt Nam là tác phẩm “Tuyển tập Thiên NamTứ Chí Lộ đồ thư” của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII. Tiếp theo là tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn năm 1776. Trong sách này, sử gia Việt Nam có ghi rõ địa điểm của đảo Hoàng Sa (đi đường biển 3 ngày, 3 đêm), sự khai thác do nhà nước tổ chức và số lượng kim khí thu lượm được từng năm (1704, 1705, 1709, 1713...). Theo Lê Quý Đôn, Chúa Nguyễn lập ra một công ty nhà nước gọi là “Công ty Hoàng Sa” với chức năng ra các hải đảo này khai thác hải sản và thu lượm hàng hoá do các tàu ngoại quốc bị đắm bỏ lại từ đầu thế kỷ XVIII. Năm 1821, Phan Huy Chú đã dành một chương dài trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí nói về quần đảo Hoàng Sa (địa lý, tài nguyên, tổ chức Công ty Hoàng Sa…). Các bản đồ hoặc các tác phẩm địa dư xuất bản năm 1774, 1838, 1882 (Giáp Ngọ Bình Nam đồ, Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí) ghi chú các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Sự cai trị thực sự các quần đảo cũng được nói rõ trong các bộ sử như: Đại Nam thực lục (1821 – 1844); Đại Nam thực lục tiền biên (1600 – 1775); Đại Nam thực lục chính biên; Đại Nam nhất thống chí (1865 – 1882); Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ (1843 – 1851).
Đầu thế kỷ XIX, các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục củng cố chủ quyền trên các hải đảo. Vua Gia Long đặc trách Công ty Hoàng Sa ra các đảo thăm dò đường hàng hải, thi hành công tác vẽ bản đồ. Năm 1833, vua Minh Mệnh cho dựng một ngôi đền, một bia và trồng cây xanh làm dấu cho các tàu bè dễ nhận ra đảo, tránh bị đắm tàu. Năm 1836, vua Minh Mệnh ra lệnh cho đô đốc hải quân đóng cột gỗ, có khắc dấu những nơi đã thanh tra: “năm thứ 17 thời Minh Mệnh, vâng lệnh nhà vua, đô đốc Phan Hữu Nhật tới Hoàng Sa để xem xét và ghi chú địa hình và đóng cột mốc để đánh dấu sự kiện”.
Những tài liệu lịch sử nói trên cũng như tính xác thực của chúng đã được các tác giả nước ngoài nhìn nhận. Do đó, có thể nói rằng, liên tục từ đầu thế kỷ XVIII cho đến thời kỳ là thuộc địa của Pháp, qua hoạt động chiếm hữu của cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước mà không gặp sự phản đối của nước nào, nhất là Trung Quốc, Việt Nam đã thụ đắc chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thể theo đúng những quy tắc của luật quốc tế hiện hành hồi đó.
Trung Quốc không những không đưa ra được những chứng cớ lịch sử về liên hệ chủ quyền với hai quần đảo mà còn không đưa ra được dấu vết nào chứng tỏ sự phản đối của Trung Quốc về sự thụ đắc chủ quyền của các vua chúa Việt Nam trong suốt thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX khi các triều vua Việt Nam tổ chức việc khai thác có hệ thống các quần đảo dưới quyền tài phán của mình.
Tóm lại, cho tới thời kỳ Pháp đô hộ Việt Nam, với hiệp ước bảo hộ năm 1884, ta có thể kết luận như Monique Chemillier – Gendreau: “Việt Nam đã giữ chủ quyền không có cạnh tranh trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với hệ thống pháp lý của thời ấy, suốt trong gần hai thế kỷ”.
Hiệp uớc Pháp – Thanh: Trong văn thư nói trên, chính phủ Trung Hoa đưa ra một luận cứ thứ hai dựa vào Hiệp ước Pháp – Thanh ký ở Bắc Kinh ngày 26/6/1887, phân chia biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam). Theo Điều 3 của bản Hiệp ước, những điểm tranh chấp ở vào phía đông và đông bắc của Móng Cái, ở bên kia đường biên giới do Uỷ ban phân chia biên giới ấn định, thuộc về Trung Quốc. Các hòn đảo ở phía Đông kinh tuyến Paris, 105043’ kinh tuyến Đông - nghĩa là con đường biên giới bắc Nam đi qua mũi phía Đông của hòn đảo Trà Cổ - thuộc về Trung Quốc và các đảo ở phía Tây của kinh tuyến ấy thuộc về Việt Nam. Nói khác đi, Trung Quốc cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở về phía Đông của ranh giới ấy thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, mục đích của Hiệp ước 1887 là phân định biên giới giữa Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam) và Trung Quốc. Hiệp ước chủ yếu liên quan đến đất liền. Nó chỉ có mục đích phụ để giải quyết những đảo nhỏ không quan trọng ở gần bờ biển nhất, mà không cần phải chỉ định rõ tên. Hiệp ước cũng chỉ định rõ điểm khởi đầu của con đường phân chia ranh giới đi qua mũi đông của đảo Trà Cổ mà không chỉ điểm cuối bởi vì bề dài của nó tuỳ sự hiện hữu của những đảo gần bờ biển. Nếu theo cách giải thích của Trung Quốc để kéo dài đường ranh giới tới giao điểm với bờ biển Trung Kỳ (miền trung Việt Nam) thì tất cả các đảo ở phía Nam của Huế đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Công ước Vienne ngày 29/6/1969 điển pháp hoá những quy tắc giải thích các hiệp ước quốc tế nhấn mạnh vào vai trò của thiện ý trong việc giải thích và vào sự cần thiết giải thích các văn bản theo nghĩa thông thường của các từ và dưới ánh sáng của mục đích và đối tượng của Hiệp ước (Điều 31). Điều 32 cho phép xem xét những công trình sửa soạn hiệp ước và những bối cảnh mà hiệp ước đã được ký kết. Mà mối quan tâm khi ký Hiệp ước 1887 khi đó giữa Pháp và Trung Quốc là vấn đề thương mại. Lúc đó cả hai bên không ai nghĩ tới các quần đảo.
Cái gọi là sự “khước từ chủ quyền” của Chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hòa: Trung Quốc đưa ra ba sự kiện sau đây để khẳng định cái gọi là Việt Nam đã “khước từ chủ quyền” trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Đầu tiên, ngày 15/6/1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Đại sứ quán Trung Quốc hình như đã khẳng định rằng: “theo những tài liệu lịch sử của phía Việt Nam thì những đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, lời tuyên bố này cho đến nay vẫn không thể xác thực, do đó, khó có thể cho nó một giá trị về phương diện pháp lý. Thứ hai, Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 nhân dịp Trung Quốc công bố quyết định nới rộng vùng lãnh hải của họ ra 12 hải lý và chỉ định rõ là quyết định liên quan đến lãnh hải của lục địa Trung Quốc và tất cả các hải đảo thuộc Trung Quốc trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”. Toàn bộ nội dung Công hàm không hề đề cập đến việc Việt Nam từ bỏ hay xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuối cùng, Trung Quốc cũng dựa trên một tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 09/5/1965 liên quan tới vùng chiến đấu của quân đội Mỹ theo đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình như đã tố cáo rằng vùng này gồm “một phần lãnh hải Trung Hoa tiếp cận với một phần quần đảo Tây Sa”.
Trước hết, cần để ý là công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ ghi nhận và tôn trọng bề rộng lãnh hải mới 12 hải lý của Trung Quốc thôi chứ không đả động tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dẫu sao, sau Hiệp định Genève, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ kiểm soát phần lãnh thổ trên vĩ tuyến 17, phần lãnh thổ miền Nam trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó hoàn toàn do chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Do đó, lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu quả pháp lý về chủ quyền trên các hải đảo này.
Hơn nữa, các sự kiện nói trên đã xảy ra trong những bối cảnh chính trị và quân sự đặc biệt ở từng thời điểm. Trước sự biểu dương lực lượng của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ trên eo biển Đài Loan, sát gần biên giới Trung Quốc trong những năm cuối thập kỷ 50, có thể coi lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một cử chỉ hỗ trợ Trung Quốc về mặt chính trị chống lại chính sách khiêu khích của Hoa Kỳ, bởi vì việc nới rộng lãnh hải từ 3 hải lý ra 12 hải lý nhằm mục đích đẩy lùi tàu chiến Hoa Kỳ ra xa ngoài biên giới hơn. Sau này, lời tuyên bố liên quan đến vùng chiến đấu cũng vậy, là lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào giai đoạn khẩn trương mới, với sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ và Việt Nam, bằng những trận tấn công ồ ạt của không quân và thuỷ quân, bằng sự đổ bộ của hàng trăm ngàn lính Mỹ. Một cuộc chiến tranh khốc liệt bắt đầu lan rộng ra cả hai miền Nam - Bắc. Tuy nhiên, trong tình hình quốc tế giữa thập kỷ 60, Hoa Kỳ tự kiềm chế chỉ can thiệp vào giới hạn lãnh thổ Việt Nam hay Đông Dương, chứ không dám xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc.
Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc căn bản của luật quốc tế khi tìm cách xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Như đã trình bày ở trên, những lập luận của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý vững chắc, hoàn toàn trái với những quy tắc của công pháp quốc tế và những án lệ về thụ đắc chủ quyền trên đất đai.
Những hành động chiếm đóng các hải đảo bằng vũ lực là một sự vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc mà Điều 2 đoạn 4 cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Quyết nghị số 2625 ngày 24/10/1970 sau khi đã nhắc lại rằng mọi sự chiếm hữu đất đai là bất hợp pháp đã quy định: “mọi quốc gia có nghĩa vụ phải tránh sử dụng sự đe doạ hoặc sử dụng vũ lực để vi phạm biên giới quốc tế hiện hữu của một quốc gia khác, như một phương tiện để giải quyết những tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”. Cho đến nay, vì đuối lý, Trung Quốc đã nhiều lần từ chối đề nghị giải quyết tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng trọng tài hoặc trước toà án quốc tế.
Trước kia Trung Quốc chỉ trích luật quốc tế cho rằng phương Tây đã dùng luật quốc tế như một khí cụ cho chủ nghĩa thực dân đế quốc. Những quy tắc về thụ đắc đất đai dựa trên sự phát hiện đầu tiên những đất đai vô chủ trên thế giới, nhất là ở châu Mỹ, châu Phi, châu Úc... không kể đến sự hiện hữu của dân bản xứ tại đây coi là “không văn minh”. Tuy nhiên, những quy tắc nói trên là những quy tắc phát sinh từ thời kỳ đầu chủ nghĩa thuộc địa. Sau đó, những quy tắc của luật quốc tế về thụ đắc chủ quyền đã tiến hoá, quy định những điều kiện về sự chiếm hữu thực thụ và ý chí biểu hiện chủ quyền của cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước đó. Vậy mà Trung Quốc vẫn đơn thuần dựa vào sự phát hiện đất đai từ xưa, nghĩa là quy tắc lỗi thời của thời thực dân, để khẳng định quan hệ chủ quyền và coi như mình có danh nghĩa chủ quyền trước Việt Nam.
Vì chính Trung Quốc trước kia cũng đã là nạn nhân của chính sách thực dân của các cường quốc phương Tây tới xâu xé, cắt xén đất đai của mình (những hiệp ước thiết lập đặc quyền ngoại giao theo luật quốc tế phương Tây trong thời kỳ 1842-1860) nên khi thu hồi độc lập Trung Quốc không thừa nhận những hiệp ước gọi là “hiệp ước bất bình đẳng” do các cường quốc phương Tây áp đặt cho Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc lại không ngần ngại lấy Hiệp ước Pháp - Thanh 1887 để làm cơ sở cho sự đòi hỏi chủ quyền của mình. Hiệp ước này giống hệt những hiệp ước bất bình đẳng khác bởi vì nó được ký kết hai năm sau cuộc chiến tranh Pháp – Thanh giữa cường quốc Pháp và triều đình Trung Hoa yếu ớt thời đó. Mục đích chính của Hiệp ước là xác nhận sự thôn tính và kiểm soát Đông Dương thuộc vùng ảnh hưởng của Trung Quốc trước kia.
Về phương diện pháp lý, Trung Quốc đã ký và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc 1982 về luật biển. Thế nhưng, theo Điều 121, khoản 3, nếu như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc chủ quyền Trung Quốc đi chăng nữa thì các quần đảo này vì chỉ gồm những hòn đảo diện tích nhỏ bé, khí hậu lại khắc nghiệt, con người không thể sinh cơ lập nghiệp ở đó, nghĩa là không có khả năng có một đời sống kinh tế tự túc, thì các đảo chỉ được nhìn nhận lãnh hải mà thôi chứ không có quyền có thềm lục địa hoặc vùng đặc quyền kinh tế riêng.
Hơn nữa, các quần đảo này vì ở xa bờ biển Trung Quốc quá 24 hải lý nên không thể ảnh hưởng tới sự phân định vùng lãnh hải của lục địa Trung Quốc được. Do đó, đường biên giới hàng hải mà Trung Quốc yêu sách chủ quyền hoàn toàn vi phạm những điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về luật biển.
Trắng trợn hơn nữa, tháng 5 năm 1992, Bắc Kinh cho phép Công ty Crestone của Mỹ thăm dò một vùng nhượng địa 24.155 km2 ở phía tây Trường Sa, ngay bên cạnh Đại Hùng. Đây là một vùng mà Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc 21 và Việt Nam gọi là bãi đá ngầm Tư Chính, nằm trên thềm lục địa của Việt Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 300 km và cách đảo Hải Nam khoảng 1.000 km. Vùng này không thể thuộc thềm lục địa của Trường Sa được (ngay cả khi được nhìn nhận có thềm lục địa đi nữa) bởi vì nó đối diện với Trường Sa và bị ngăn cách nhau bằng một rãnh sâu từ 1.800 tới 2.000m.
Cũng không thể quên rằng, trong tranh chấp với Việt Nam trên các hải đảo, Trung Quốc luôn luôn lợi dụng những thời cơ thuận lợi để thực hiện mưu đồ bành trướng, như việc thay thế phát xít Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai để chiếm đảo Phú Lâm ở quần đảo Hoàng Sa và Ba Đình ở quần đảo Trường Sa, rồi lợi dụng lúc tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang khẩn trương năm 1974 để độc chiếm quần đảo Hoàng Sa, rồi đổ bộ lên quần đảo Trường Sa năm 1988 khi Việt Nam đang bị khó khăn về kinh tế, rồi lợi dụng khoảng trống chiến lược trong vùng Đông Nam Á, với sự rút lui của hải quân Liên Xô và của Hạm đội 7 của Mỹ sau thất bại ở Việt Nam để mưu toan kiểm soát Biển Đông.
Kết luận:
Từ những luận cứ ở trên cho thấy, Trung Quốc không hề có căn cứ lịch sử, pháp lý để khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông và những gì mà nước này đang cố gắng tuyên truyền chỉ là hình thức ngụy biện, biến không thành có. Ngoài ra, hành động sử dụng vũ lực để xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là phi pháp, vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương LHQ.
Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Các hành động nêu trên của Trung Quốc không chỉ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không phù hợp với nhận thức chung quan trọng của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc kiểm soát tốt bất đồng trên biển cũng như xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước, trái với tinh thần và nội dung của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có lợi cho tiến trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) cũng như việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Biển Đông và khu vực. Việt Nam kiên quyết phản đối, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động nêu trên, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thực hiện nghiêm túc Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng như Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có hành động làm phức tạp tình hình; đóng góp thiết thực và tích cực vào phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông và khu vực.