Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Báo cáo pháp y Michigan cho thấy Dominion với tỷ lệ lỗi khủng khiếp 68.05% – Amistad Project: Các thẩm phán cần ra lệnh lưu giữ bằng chứng về gian lận bầu cử

Tuesday, December 15, 2020 // ,

 Báo cáo pháp y Michigan cho thấy Dominion với tỷ lệ lỗi khủng khiếp 68.05%  –  Amistad Project: Các thẩm phán cần ra lệnh lưu giữ bằng chứng về gian lận bầu cử

 DECEMBER 14, 2020 – Nhóm Hoạt động An ninh Đồng minh đã kết luận trong cuộc kiểm tra của họ đối với các máy của quận – nơi hơn 6.000 phiếu bầu chuyển từ Trump sang Biden một cách bí ẩn – rằng các máy Bỏ phiếu Dominion được đặt ở tỷ lệ lỗi 68.05%, có nghĩa là 68.05% số phiếu bầu phải được gửi ra bên ngoài được tính bởi những người ở vị trí khác.

“Chúng tôi kết luận rằng Hệ thống bỏ phiếu thống trị được thiết kế có chủ đích và có chủ đích với các lỗi cố hữu nhằm tạo ra gian lận có hệ thống và ảnh hưởng đến kết quả bầu cử,” báo cáo nêu rõ. “Hệ thống cố tình tạo ra một số lượng lớn các lỗi phiếu bầu. Các lá phiếu điện tử sau đó sẽ được chuyển để xét xử ”.

Báo cáo tiếp tục giải thích quá trình xét xử này là nơi diễn ra gian lận như thế nào.

“Các sai sót cố ý dẫn đến việc xét xử hàng loạt các cuộc bỏ phiếu mà không có sự giám sát, không minh bạch và không có dấu vết kiểm toán. Điều này dẫn đến việc cử tri hoặc gian lận bầu cử, ”báo cáo tiếp tục.

“Dựa trên nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi kết luận rằng Hệ thống bỏ phiếu thống trị không nên được sử dụng ở Michigan. Chúng tôi kết luận thêm rằng kết quả của Hạt Antrim lẽ ra không được chứng nhận. ”

Dưới đây là những sự thật chính từ cuộc điều tra này, theo The Gateway Pundit:.

Kết quả được lập bảng bằng máy được báo cáo vào ngày 3 tháng 11 năm 2020 cho thấy có 12.423 phiếu bầu cho Tổng thống – Joe Biden nhận được 7.769 và Donald Trump nhận được 4.509. Máy tính cho ngày 3 tháng 11 cho thấy chỉ có 56% số cử tri đã đăng ký bỏ phiếu cho Tổng thống. Nhưng một bảng thống kê tiếp theo ba tuần sau (ngày 21 tháng 11) đã đưa Trump lên dẫn đầu với 9.748 phiếu bầu so với 5.960 của Biden. Tổng số phiếu bầu cho Tổng thống tăng 3.526 và tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 73%.

Một số lượng đáng kinh ngạc trong số các lá phiếu được bầu ở Antrim yêu cầu ADJUDICATION. Hệ thống Dominion phân loại lá phiếu thành hai loại, 1) lá phiếu thông thường và 2) lá phiếu xét xử. Các lá phiếu được gửi đến quá trình xét xử có thể được thay đổi bởi quản trị viên và tệp xét xử có thể được di chuyển giữa các thiết bị đầu cuối Kiểm tra kết quả và Báo cáo (RTR) khác nhau mà không có dấu vết kiểm tra mà quản trị viên thực sự phân xử (tức là bỏ phiếu) lô phiếu.

Ví dụ, ở Thị trấn Central Lake, 81,96% trong tổng số 1.491 lá phiếu được bầu đã được xét xử, có nghĩa là quyết định về người nhận được phiếu bầu là do nhân viên bầu cử đưa ra.

Tất cả nhật ký ADJUDICATION cho chu kỳ bầu cử tháng 11 năm 2020 bị thiếu trong khi các tệp cho các năm trước vẫn tồn tại. Việc thiếu các hồ sơ hiện tại ngăn cản mọi hình thức kiểm toán trách nhiệm.

Tất cả nhật ký bảo mật máy chủ trước 11:03 chiều ngày 4 tháng 11 năm 2020 đều bị thiếu. Điều này có nghĩa là tất cả nhật ký bảo mật cho ngày sau bầu cử, vào ngày bầu cử và trước ngày bầu cử đều biến mất. Các nhật ký này chứa các điều khiển miền, lỗi xác thực, mã lỗi, thời gian người dùng đăng nhập và tắt, kết nối mạng với máy chủ tệp giữa các lần truy cập tệp, kết nối internet, thời gian và truyền dữ liệu.

Một người dùng trái phép đã cố gắng loại bỏ kết quả bầu cử vào ngày 21 tháng 11 năm 2020 không thành công.

Nhật ký của nhà thiết kế sự kiện bầu cử cho thấy rằng Thẻ Dominion Image Cast Precinct đã được lập trình với chương trình bỏ phiếu mới vào ngày 23/10/2020 và sau đó lặp lại sau cuộc bầu cử vào ngày 11/05/2020. Cụ thể, tổng số băng của trình lập bảng Central Lake Township đã bị thay đổi đáng kể bằng cách sử dụng hai phiên bản chương trình khác nhau (23/10/2020 và 11/05/2020), cả hai đều là những thay đổi phần mềm trong một cuộc bầu cử – vi phạm rõ ràng luật bầu cử.

Hạt Antrim đã sử dụng hai gói phần mềm với máy Dominion – một gói phiếu thực được đếm (tức là được lập bảng) và tổng số phiếu còn lại ĐƯỢC TÍNH.

Tổng số của băng lập bảng chứng minh có một số lượng lớn phiếu bầu được chuyển từ băng ngày 3 tháng 11 năm 2020 sang băng ngày 6 tháng 11 năm 2020. Điều này chỉ dựa trên việc sử dụng các phiên bản phần mềm khác nhau của chương trình điều hành để tính phiếu bầu.

“Tỷ lệ lỗi” cao trong phần mềm bầu cử (trong trường hợp này là 68,05%) có nghĩa là một thuật toán đã được sử dụng để đánh giá một ứng viên lớn hơn một ứng viên khác (ví dụ: cân nhắc một ứng cử viên cụ thể ở tỷ lệ 2/3 đến xấp xỉ 1/3). Nhật ký Antrim cho thấy rằng Thuật toán bỏ phiếu lựa chọn RCV hoặc Xếp hạng đã được bật (xem hình ảnh bên dưới từ hướng dẫn sử dụng Dominion), cho phép người dùng áp dụng giá trị số có trọng số cho các ứng cử viên và thay đổi kết quả tổng thể.

Các máy bỏ phiếu Dominion được sử dụng ở Hạt Antrim được sử dụng ở 48 hạt khác của Michigan, điều này sẽ đặt câu hỏi về toàn bộ kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống.

Đọc toàn bộ báo cáo pháp y dưới đây:

Read the full forensic report below:

Antrim Michigan Forensics Report 121320 Redacted

Link: https://headlines360.news/2020/12/14/bombshell-michigan-forensic-report-shows-dominion-at-massive-68-05-errors-rate/ 

Amistad Project: Các thẩm phán cần ra lệnh lưu giữ bằng chứng về gian lận bầu cử

 15/12/20

Amistad Project: Các thẩm phán cần ra lệnh lưu giữ bằng chứng về gian lận bầu cử

Người dân tập trung trước Tòa nhà Quốc hội Bang Michigan cho cuộc biểu tình “Ngăn chặn đánh cắp” bầu cử để ủng hộ Tổng thống Mỹ Donald Trump vào ngày 14/11/2020, ở Lansing, Michigan. Thông điệp trên bảng: “Phiếu bầu hợp pháp = Phiếu bầu thực” (Ảnh của JEFF KOWALSKY / AFP qua Getty Images)

Giám đốc Amistad Project cho biết: “Chúng tôi đang đệ trình đơn kiến nghị tại tất cả các tiểu bang, yêu cầu các thẩm phán phải vào cuộc và bảo quản bằng chứng để tránh bị phá hủy hoặc làm hỏng, do các hành vi cố ý hoặc liều lĩnh của các quan chức hành pháp”.

Sau khi có báo cáo từ một công ty thực hiện kiểm tra máy kiểm phiếu ở hạt Antrim thuộc tiểu bang Michigan, nhóm pháp lý Amistad Project tuyên bố sẽ đệ đơn ở các bang khác để kêu gọi các thẩm phán “bảo toàn bằng chứng” về cáo buộc gian lận cử tri.

Giám đốc Phill Kline của Amistad Project cho biết: “Chúng tôi đang đệ trình đơn kiến nghị tại tất cả các tiểu bang, yêu cầu các thẩm phán phải vào cuộc và bảo quản bằng chứng để tránh bị phá hủy hoặc làm hỏng, do các hành vi cố ý hoặc liều lĩnh của các quan chức hành pháp”. Tuyên bố này được đưa ra sau khi Allied Security Operations Group được cấp phép công bố báo cáo của mình từ lệnh của thẩm phán Michigan. Giám đốc Kline đã tweet rằng, đơn kiến nghị lên tòa án sẽ yêu cầu cho phép các nhà lập pháp có quyền truy cập vào dữ liệu cử tri và bầu cử để đưa ra quyết định.

Nhóm Allied cho biết đã thực hiện giám định điều tra đối với các máy kiểm phiếu dùng trong bầu cử. Người đồng sáng lập nhóm là ông Russell Ramsland đã viết: “[Máy móc của] Dominion Voting System được cố tình thiết kế kèm các lỗi cố hữu, với chủ đích gây ra gian lận có hệ thống và tạo ảnh hưởng đến kết quả bầu cử”.

Báo cáo kết luận: “Hệ thống cố tình tạo ra một số lượng lớn các lỗi phiếu bầu. Các lá phiếu điện tử sau đó sẽ được chuyển tiếp để xem xét. Các sai sót cố ý dẫn đến việc xem xét hàng loạt các phiếu bầu mà không có sự giám sát, thiếu minh bạch và không có dấu vết kiểm toán. Điều này dẫn đến tình trạng gian lận cử tri hoặc bầu cử”.

Dự án Amistad Project trích dẫn các phát hiện từ báo cáo giám định của máy chủ cho hạt Antrim vào ngày 6/12 cho thấy, trong khoảng 15.676 phiếu bầu, có 10.667 phiếu, tức 68,5% số phiếu bị đánh dấu có lỗi.

The error rate detailed in the Antrim County report has implications for every state where we have litigation, and it comes on a day when officials are blocking legislators from having their say about elections in their states.

— Phillip Kline (@PhillDKline) December 14, 2020

Trong một bản tin, ông Kline nhận định: “Tỷ lệ sai sót được nêu chi tiết trong báo cáo này có thể áp dụng cho mọi tiểu bang nơi chúng ta đang có các vụ khiếu kiện, và [báo cáo được đưa] ra vào ngày mà các quan chức ngăn cản các nhà lập pháp lên tiếng về các cuộc bầu cử ở tiểu bang của họ. Điều này tương hợp với các bằng chứng thuyết phục khác đã chứng minh, các cuộc bầu cử ở các bang [chiến địa] này không thể được chứng nhận theo luật”.

Các quan chức bầu cử tại tiểu bang Michigan đã bác bỏ báo cáo của nhóm Allied Security. Họ nhận định, nhóm Allied Security nằm trong số “các tổ chức mờ ám tuyên bố có chuyên môn, để tung ra những cáo buộc vô căn cứ về gian lận trong nỗ lực đánh lừa cử tri Mỹ”.

Cựu ứng cử viên Ramsland thuộc đảng Cộng hòa tại Hạ viện Texas là người từng làm việc dưới thời chính quyền cố Tổng thống Reagan. Trước đây, ông cũng từng được NASA và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) tuyển dụng.

Trong một đơn đệ trình lên tòa án hồi cuối tuần qua, Giám đốc Văn phòng Bầu cử Jonathan Brater của bang Michigan bổ sung rằng: “Bản báo cáo đưa ra một loạt các kết luận không được ủng hộ, nhắc đến những động cơ gian lận và gây rối đối với các quy trình, vốn có thể giải thích đơn giản là các thủ tục bầu cử thông thường hoặc sửa chữa lỗi. [Thậm chí nó còn] đề xuất rằng, các tính năng của phần mềm bầu cử không được sử dụng ở Michigan nhưng bằng cách nào đó lại phải chịu trách nhiệm cho việc kiểm phiếu hoặc báo cáo, mà lại không đính kèm lời giải thích”.

Cùng lúc, Dominion cũng phản bác báo cáo này trong một tuyên bố với Detroit Free Press hôm 14/12. Trước đó, công ty này luôn khẳng định máy kiểm phiếu của họ không thể chuyển phiếu bầu từ ứng cử viên này sang ứng cử viên khác.

Nhưng cả Amistad Project và ông Kline đã chỉ ra một chỉ thị của Bộ trưởng Nội vụ bang Michigan (pdf) vào ngày 1/12. Chỉ thị này hướng dẫn các thư ký bầu cử các hạt cách xóa các danh sách cử tri điện tử khỏi máy tính xách tay và ổ USB. Dự án Amistad cho biết, họ muốn các thẩm phán ở các bang dao động ban hành lệnh khẩn cấp để ngăn chặn nỗ lực xóa dữ liệu danh sách cử tri trên các máy này.

Ngày 14/12, ông Kline nhấn mạnh: “Tại Michigan, Bộ trưởng Nội vụ bang đã ra lệnh xóa danh sách cử tri ​​điện tử và các bằng chứng khác, đồng thời đã thực hiện các bước xác định để niêm phong bằng chứng giám định liên quan đến những sai sót trong hoạt động của các máy kiểm phiếu Dominion”, để công chúng và các nhà lập pháp không thể truy cập và xem xét các bằng chứng này.

Ông tiếp tục: “Điều này liên quan đến việc Tổng chưởng lý bang Michigan đe dọa các nhà lập pháp sẽ điều tra hình sự và có thể bị truy tố nếu họ không đồng tình với bà ấy, và Thống đốc Michigan và các quan chức khác đã đóng kín cửa nhà dân và ngăn không cho họ tụ họp hôm nay để thực hiện nghĩa vụ hiến pháp của mình”.

Đảng Cộng hòa bang Michigan GOP nhận định, bản ghi chú ngày 1/12 của Bộ trưởng Nội vụ bang rất đáng quan ngại.

Trong một tuyên bố hôm 4/12, Chủ tịch đảng Cộng hòa bang Michigan là bà Laura Cox cho biết: “Việc Bộ trưởng Nội vụ Benson yêu cầu xóa dữ liệu bầu cử trong bối cảnh lưỡng đảng kêu gọi kiểm tra chỉ là một ví dụ khác về việc bà ấy đặt [lợi ích] chính trị đảng phái lên trên những gì tốt nhất cho [người dân] Michigan”.

Trong một tuyên bố với The Epoch Times vào thời điểm đó, văn phòng Bộ trưởng  Nội vụ bang Michigan đã gọi đây là một việc làm thường lệ.

Người phát ngôn cho biết: “Dữ liệu danh sách cử tri ​​điện tử, được xóa sau mỗi cuộc bầu cử để bảo vệ thông tin nhận dạng cá nhân, và được lưu giữ riêng biệt trên hồ sơ giấy. [Vậy nên] không cần thiết để yêu cầu thực hiện bất kỳ cuộc thanh tra nào, bởi vì các bản  lưu trữ giấy của danh sách cử tri luôn được lưu trữ để dùng cho các cuộc thanh tra”.

Du Miên – Theo Epoch Times tiếng Anh

https://www.ntdvn.com/bai-khac/amistad-project-cac-tham-phan-can-ra-lenh-luu-giu-bang-chung-ve-gian-lan-bau-cu-116434.html

Đi

// ,
Đi

Rời khỏi quê hương, chân ướt chân ráo đến một vùng đất an bình và xa lạ, tôi ngồi thở hổn hển cả năm rồi mới hoàn hồn. Ngó trước – ngó sau: té ra, xứ mình không phải là nơi đầu tiên (hay duy nhất) mà dân chúng phải lũ lượt bỏ của chạy lấy người. 
Thiên hạ đã đi tị nạn từ rất nhiều nơi khác, và lắm kẻ đã đi tự lâu rồi. Tuy thế, tôi vẫn tin rằng không dân tộc nào mà chuyện lánh nạn cộng sản lại nhiêu khê, và lê thê (kéo dài suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác) như đám dân Việt cả.
Sau khi Hiệp Định Geneve 1954, gần triệu người miền Bắc ào ạt di cư vào Nam. Mẹ già kể lại là bà quang ghánh hai đầu: một đầu là tôi (*) với người chị kế, và một chú cún con; đầu kia lủ khủ bao bị, mùng mền, áo quần, gạo muối… Sở dĩ phải có thêm con chó nhỏ vì chị tôi từ chối rời nhà, nếu không cho nó đi cùng. 
Những kẻ chậm chân – ra đi kể từ ngày ba trăm lẻ một, sau thoả hiệp đình chiến – không còn được coi là dân di cư mà bị coi là “kẻ vượt tuyến.” Chỉ qua tên gọi cũng đủ thấy số phận của họ gian nan hơn hẳn. Đoàn Thêm (trong cuốn Việc Từng Ngày: 1954 – 1964, Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1966) ghi nhận: 
– 4 tháng 10, 1956: 3 người liều chết bơi qua sông Bến Hải vào Nam tìm tự do. 
– 19 tháng 11, 1956: 19 người dân Nghệ An dùng ghe vượt biển vào Nam.
– 8 tháng 4, 1957: 41 người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam.
– 28 tháng 10, 1957: 2 sinh viên vượt tuyến vào Nam… 
– 11 tháng 2, 1958: 14 người xuyên qua Lào đến được miền Nam. 
Thảm kịch “vượt tuyến” khiến dư luận xôn xao nhất (có lẽ) là trường hợp của Vũ Anh Khanh. Nhà thơ Viên Linh tường thuật:
“Sau 20 tháng 7, 1954, ông tập kết ra Bắc, nhưng rồi chỉ ba năm sau ông quyết định bơi qua sông Bến Hải trở lại quê hương bản quán, thì một mũi tên tẩm thuốc độc từ bờ Bắc bắn theo ông. Thi sĩ đã không tới được bến bờ tự do, Bến Hải đã trở thành một dòng sông vĩnh biệt.”
Hơn hai thập niên sau, sau khi “miền Nam được hoàn toàn giải phóng” không lâu – bắt đầu từ cuối thập niên 1970 – Vịnh Thái Lan lại trở thành “vùng biển vĩnh biệt” của hằng trăm ngàn người dân Việt khác. Những kẻ sống sót được nhân loại mệnh danh là boat people vì họ vượt biên bằng thuyền. 
Thuyền nhân có hai loại: bán chính thức và chui. Trong tập thể đi chui, thỉnh thoảng, vẫn có lẫn những kẻ đi hôi hay đi ké. Tôi không có vàng để nộp cho chủ ghe, cũng không đủ trơ tráo (hay táo bạo) để đi hôi nên chọn một phương cách thứ hai: đi ké. 
Rời trại cải tạo ra, tôi về đến Đà Lạt và được biết mình chỉ được phép sống ké (và sống tạm) ở nhà thôi vì không có tên trong sổ hộ khẩu. Thế là tôi đi nữa, dù chưa biết đi đâu. Loay hoay mãi rồi tôi tìm đến một thành phố ven biển. Sau một thời gian bán bánh tiêu, và chạy xe lôi, tôi lân la làm quen (rồi xin phụ việc) cho những người dân ở một xóm chài. 
Tôi không phải là tài công, không phải tài cải (thợ nấu) cũng chả phải là thợ câu hay thợ lưới … mà chỉ là thợ vịn nên được giao cho mọi việc lặt vặt dưới ghe: quăng phao, kéo đục, lựa tôm, lựa cá, dọn dẹp, lau chùi… Tôi làm tất tần tật mọi thứ, và không hề đòi hỏi tiền bạc hay thù lao gì ráo trọi – ngoài những bữa cơm thanh đạm.
Ban ngày, tôi còn tình nguyện coi ghe từ sáng tới chiều vì lên bờ cũng chả có chỗ đi. Biết đi đâu khi túi không có một đồng, và cũng chả có một tờ giấy tùy thân để lận lưng. Chỉ lỡ đạp bánh tráng thôi cũng đã đủ phiền rồi; còn nhỡ mà đụng công an thì (ôi thôi) chắc chắn là phiền lắm, phiền lâu và phiền lớn. Lại vào tù thêm lần nữa, dễ như không!
Dân chài vốn hào sảng nên những khi trúng đậm (bất kể cá/tôm) thế nào tôi được kéo lên nhà một ông/bà nào đó để ngồi lai rai ba sợi suốt đêm, khỏi phải ra khơi. Cái gì chớ rượu thì chịu quá nhưng vì chỉ thuộc thành phần nhậu ké nên tôi vẫn thường giữ một thái độ ké (né) cho nó dễ coi: uống vừa, nói ít và chỉ cười (trừ) cho tới sáng.
Phần lớn tài công trong vùng đều hành nghề theo thói quen đi biển đã lâu, chứ không mấy ai đã từng lái ghe qua khỏi Hòn Tre và cũng chả mấy người có khái niệm rõ ràng gì về bốn phương tám hướng. Bởi thế, khi bàn rượu rôm rả về chuyện vượt biên – đôi khi – tôi cũng từ tốn góp chút ý kiến về phương giác, và cách xử dụng hải bàn.
Cũng có lúc, tôi dùng ngón tay chấm rượu để vẽ hình mũi Cà Mau (cùng những vùng biển lân cận) và giải thích cho mọi người hiểu tại sao nếu từ Rạch Giá mà muốn qua Thái Lan thì buộc phải đi theo hướng Tây/Nam. Chịch về hướng Tây có thể bị lạc sang Cao Miên. Còn xuôi Nam hẳn thì bị lọt xuống Úc Đại Lợi. Như thế, sẽ không đủ dầu vì đường rất dài (và cũng rất gian truân) trong khi cả xóm không ai sắm được một cái tầu nào ngon lành cả.
Có lẽ nhờ chút hiểu biết về hải hành mà tui lọt vô mắt xanh của một ông chủ ghe, và được giao cho cầm lái để đi (ké) tới Thái Lan vào mùa Hè 1980. Bốn mươi năm sau, sau khi đã sống đến gần hết cuộc đời của một người tị nạn – vào hôm 17 tháng 6 năm 2020 – tôi tình cờ nghe RFA ái ngại loan tin: “Mười một người Việt Nam vượt biển đi Úc bị bắt giữ ở Đông Timor.”

Họ là những người vượt biên mới nhất theo đường biển, chứ chưa hẳn đã là những kẻ cuối cùng. Đồng bào tôi vẫn tiếp tục ra đi nhưng tuyệt đại đa số lựa chọn nhiều phương cách khác, tùy theo túi tiền và hoàn cảnh. Theo dữ liệu của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) “từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư.” Đây là một hiện tượng bất thường, theo công luận:
– Blogger Song Chi: “Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại… Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”
– Nhà báo Nguyễn Quang Duy: “Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là ‘bỏ phiếu bằng chân’). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an…”
– Nhà văn Đào Hiếu“Đất nước đã bị cưỡng đoạt.”
– T.S Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin” của những người không muốn “sống gù.” 
– Thi Sĩ Inra Sara thêm: Làm thế nào đừng phải đi bằng lưng, làm sao không phải dạ dạ vâng vâng bợ trên đạp dưới, để vẫn có thể sống như là sống? Sống, và có thể sáng tạo?
Những bậc thức giả (thượng dẫn) đã nói thế thì kể như là… hết ý rồi. Tôi chỉ dám (trộm) nghĩ rằng trừ lũ cột đèn, dân Việt ai cũng muốn bỏ đi vì tất cả đều chia chung cái tâm cảm của những kẻ chỉ được sống tạm (hay sống ké) trên mảnh đất quê hương của chính mình. 
Những “bác nông phu vài ngàn năm đứng trên đất nghèo” không hề nao núng nhưng với luật “đất đai là sở hữu của toàn dân” (nên có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào) thì bỗng trở nên hụt hẫng.
Sau khi núi rừng bị khai thác đến trơ trụi (và sau những biến động tàn bạo xẩy ra ở Tây Nguyên (2001 – 2004) – Điện Biên (2011) không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng đành phải rời bỏ bản làng. Họ ra đi trong vô vọng và vô định. Người bị bắt lại thì vào tù không có ngày ra; còn kẻ chạy thoát thì đang sống một cách bần cùng ̣(và mòn mỏi) ở hai nước láng giềng: Miên và Thái.
Ngư dân nay không còn “nhìn trùng dương hát câu no lành” như Phạm Duy đã từng mô tả. Mắt trước (mắt sau) họ lấm lét cứ như là kẻ trộm, dù đang thả lưới trong hải phận Việt Nam. Đã thế, họ lại còn “được” Đảng và Nhà Nước “trao cờ tổ quốc để vươn khơi bám biển” thay cho … lực lượng Hải Quân!
Ngay cả những vị Đại Biểu Quốc Hội (cơ quan quyền lực cao nhất nước) cũng chỉ là những kẻ ngồi ké né ở nghị trường – với cái quốc tịch thứ hai dấu kín trong túi áo, cùng với tâm trạng thấp thỏm – và sẵn sàng để chuồn, ngay khi có biến! 
Giới lãnh đạo cũng thế. Cũng đều hối hả vơ vét (“không từ một thứ gì”) như những kẻ đang trên một chuyến tầu vét cuối cùng. Thái độ nhấp nhổm của mọi giới “tinh hoa” khiến chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan không khỏi băn khoăn: “Đi định cư ở nước ngoài cả, đất nước này ai xây dựng đây?”
Bao giờ mà cái chế độ hiện hành còn tồn tại ở Việt Nam thì xây dựng, xem chừng, là điều bất khả. Còn có ai thiết tha chi đến một mảnh đất mà mình chỉ được quyền sống ké (hay sống tạm) thôi.
(*) Dù chào đời tại Sài Gòn trước Hiệp Định Geneve, tôi vẫn “có mặt” trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi 1954. Đây là chuyện hơi khó hiểu, và cũng hơi dài dòng nên xin được giải bầy sau – khi tiện dịp.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

danlambaovn.blogspot.com

https://danlambaovn.blogspot.com/2020/12/i.html 

Những Món Quà Vô Giá Dành Cho Ông Bà Cha Mẹ!

// ,

 Những Món Quà Vô Giá Dành Cho Ông Bà Cha Mẹ!

Con cháu nào biết dành thì giờ hỏi han cha mẹ, ông bà, và chịu khó lắng nghe những “tâm sự” của các cao niên thì mới thật sự là những món quà vô giá mà mình muốn dành cho các vị ấy trong những mùa lễ lớn…
 Đề cập đến việc quà cáp, người ta dễ dàng chú ý đến những gì có tính cách vật chất hơn là tinh thần, nhưng thực chất cho thấy, các món quà tinh thần thường mang nhiều ý nghĩa sâu đậm hơn vật chất. Nói như vậy không có nghĩa là người đang đói rét có thể no lòng hay ấm áp bởi những lời hỏi thăm theo kiểu lấy lệ hay chúc lành theo kiểu thiêng liêng như Thánh Kinh đã khuyến cáo trong sách Gia Cơ 2:16b “Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng?” Vào những ngày lễ lớn người ta thường “đau đầu” vì không biết là mua quà gì tặng cho người thân hay bằng hữu mà có ý nghĩa nhất. Cho nên ở trên mạng lưới toàn cầu (Internet) có nhiều bài viết liên quan đến việc tặng quà. Nào là: Tặng quà cho bố mẹ bạn gái như thế nào? Chọn quà Tết cho bố mẹ vợ như thế nào để thể hiện thành ý của con rể? Quà biếu bố mẹ chồng nên chọn như thế nào cho ý nghĩa? Đau đầu chọn quà Tết cho bố mẹ vợ? Mua quà gì biếu Tết bố mẹ chồng và bên nội, bên ngoại xa gần của nhà chồng?… Nhưng tôi lại ít thấy hay không thấy người ta đề cập đến việc tặng quà cho cha mẹ ruột hay ông bà của mình.
Người Việt mình có câu “của cho không bằng cách cho”, cho nên việc tặng quà cho người trên trước mà không đủ khéo léo, có khi đã tốn kém về vật chất nhưng còn bị tổn thương về tình cảm, chứ không phải chuyện tầm thường. Tôi đã từng học những bài học để đời chỉ vì mình nghĩ ai cũng dễ tính hay đơn giãn giống như mình. Nghĩ theo nghĩa tích cực thì dù sao đó cũng là cơ hội để tôi “học khôn”. Dù vậy, khổ nỗi “không có cái dại nào giống cái dại nào” như các cụ đã nói.
Vợ chồng tôi có quen một bà Mỹ. Bà “than phiền” rằng, ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề rồi mà không biết mua quà gì cho mẹ của bà. Bà hỏi chúng tôi là có ý kiến gì không? Tôi mách với bà là hãy tặng cho mẹ bà “một cuộc thăm viếng”. Bà cười khi nghe tôi nói “khôi hài” như thế và bà cho biết rằng mẹ của bà ở tận bên miền Đông Hoa Kỳ còn bà đang ở miền Tây nên việc thăm viếng rất tốn kém. Mà bà ngại tốn kém cũng phải. Bởi với cái nhà gần mười phòng ở vùng Lake Oswego của Tiểu Bang Oregon thì nội trả tiền hằng tháng cho nhà băng cũng đủ để “tắt thở”. Theo lời tâm tình của bà thì một hay hai năm bà mới thăm viếng mẹ được một lần. Tôi nói “Nếu không thăm viếng được thì bà nên thường xuyên gọi hỏi thăm, trò truyện cũng là đáng quý”. Bà đã nói lời cảm ơn về sự khích lệ đó của chúng tôi.
Sở dĩ tôi mách cho bà bạn Mỹ như thế là vì tôi cũng thường nhắc những người bạn thân hay quen thân của tôi, gồm những người có phước mà ông bà hay cha mẹ còn sống, là hãy thường xuyên thăm viếng các vị ấy nếu mình không may phải sống xa cách các đấng sinh thành. Chứ đừng chờ sau khi họ qua đời hay không còn biết gì nữa rồi đến thăm hay tham dự tang lễ với những lời than khóc, thì đã muộn.
Tôi tin rằng những ai đang ở vị trí ông bà, cha mẹ, rất cần con cháu thăm viếng hay hỏi han hơn là chờ những món quà về mặt vật chất. Tâm lý cho thấy người cao niên có ai hỏi han, thăm viếng và chịu khó ngồi nghe họ nhắc chuyện dĩ vãng là họ vui lắm. Thông thường thì các con cháu hay người trẻ tỏ ra bực dọc vì ông bà cha mẹ của họ cứ thích nhắc chuyện quá khứ. Nghĩ cho cùng thì người trẻ còn có hiện tại và tương lai, riêng các cao niên với một quá khứ dù u ám hay vàng son đã qua, nhưng hiện tại thì “mịt mù” còn tương lai thì “đen tối”… Thì làm sao mà họ không tiếc nuối hay thích nhắc chuyện đã qua.
Dù tôi không phải là thành phần “ăn không ngồi rồi” nhưng nếu có cao niên nào muốn kể cho tôi nghe chuyện quá khứ của họ, tôi sẵn sàng nghiêm chỉnh ngồi nghe. Tôi từng ngồi hằng giờ để trực tiếp nghe hay nghe qua điện thoại về quá khứ của những cao niên mà tôi quen biết. Tôi thích nghe để học hỏi và tôi cũng muốn nhân cơ hội đó tặng cho họ một món quà tinh thần mà tôi cho là “vô giá”, đó là lắng nghe người cao niên tâm sự chuyện đời của họ.
Cao niên nào còn đủ đôi, đủ cặp, cho dù không có con cháu ở gần hay ở cùng thì cũng còn đỡ khổ, bởi “bên em đã có anh” hay “bên anh cũng còn có em”; chứ đối với ông bà cụ nào mà người bạn đời đã lìa trần, thì còn nỗi cô đơn nào khủng khiếp hơn? Cho nên con cái mà biết dành thì giờ thăm viếng ông bà, cha mẹ tức là họ đã “tiêm thuốc bổ” cho các vị ấy chứ không chỉ là những cuộc thăm viếng tầm thường. Con cháu nào biết nhớ đến ông bà cha mẹ mà mang quà đến tặng trong những lần thăm viếng là chuyện đáng khen, nhưng đáng khen hơn nữa nếu họ biết dành thì giờ hỏi han cha mẹ, ông bà, và chịu khó lắng nghe những “tâm sự” của người già, thì mới thật sự là những người con hay cháu có lòng hiếu thảo.
Trong bài viết “Thái độ tạ ơn” tôi có đề cập rằng: Không ít người trong chúng ta cũng nhân thời điểm “Lễ Tạ Ơn” để tổ chức những bữa tiệc linh đình hầu “tạ ơn Chúa” hay “nhớ ơn Người” nhưng thực chất thì tinh thần biết ơn không mấy đúng nghĩa. Cũng có thể trong thời điểm chúng ta đang ăn uống no say thì ông bà, cha mẹ của của chúng ta đang ở một xó nào đó mà chúng ta không còn nhớ tới, hay họ đang nằm liệt giường trong bệnh viện, hoặc đang ngồi gục gặc, ngoẻo đầu trên chiếc xe lăn trong các việc dưỡng lão, mà con cháu vì bận tố chức “tạ ơn Trời” hay “cảm ơn Người” nên không còn thì giờ để ghé tạt vào thăm. Hoặc những người mà chúng ta từng thọ ơn họ một cách trực tiếp hay gián tiếp đã không còn trong trí nhớ của chúng ta, chỉ vì chúng ta đang bận tổ chức những buổi “tạ ơn Trời” hay “nhớ ơn người”.
Khi tôi đề cập đến điều này rất dễ cho những ai không làm được điều đó có nhiều lý cớ để biện minh, nào là ở hải ngoại này ai cũng bận rộn đủ mọi thứ chuyện, chứ đâu phải giống bên Việt Nam. Ai có thì giờ đâu mà thăm viếng thường xuyên hay ngồi đó mà nghe chuyện “vô bổ” của đời xưa?
Nếu độc giả nào mà được phước có ông bà cha mẹ còn sống như tôi đã nói, mà đọc đến đây nhưng lại không tin điều tôi nói thì hãy chịu khó cắt bài báo này rất giữ. Quý vị chờ sau khi ông bà hay cha mẹ của mình qua đời thì quý vị sẽ cảm được những gì tôi đề cập hôm nay.
Trở lại chuyện quà cáp, một ông bạn thân của tôi cho biết là năm nào vào ngày Tết Nguyên Đán vợ chồng ông cũng nhắc các con mua quà tặng cho bên chồng hay bên vợ. Một ông bạn khác có hai cô con gái, vợ chồng ông cũng thường nhắc con mình thường xuyên thăm viếng nhà chồng và nhớ mua quà Tết cho nhà chồng, bởi đó là lễ nghĩa hay văn hóa của người Á đông hay của người Việt chúng ta. Vợ chồng ông giải thích rằng, quà cáp không chỉ mang ý nghĩa vật chất mà còn mang nặng về mặt tinh thần, lễ nghĩa, yêu thương trong đó.
Trước khi chấm dứt bài viết này tôi muốn kể quý độc giả nghe một câu chuyện thật 100%. Có lần tôi vào thăm một người bạn đang ở trong “Nursing home” tại miền Nam California. Nhìn Cụ Bà Việt Nam tuổi ngoài bảy mươi hay tám mươi, đang ngồi trên xe lăn, nên tôi đến gần chào hỏi. Sau đây là mẫu đối thoại giữa tôi và cụ:
“Cụ ở trong này được bao lâu rồi?” Tôi hỏi. “Tôi ở đây khoảng ba bốn năm rồi”. Cụ trả lời. “Trông cụ còn minh mẫn quá mà tại sao phải vào đây? Chắc là cụ không có con cháu ở gần phải không?” Tôi dồn dập hỏi thêm.
“Các gia đình con cháu tôi ở trong thành phố này. Gần lắm, chỉ cần năm mười phút lái xe thôi. Tôi bị tai biến, nên bị liệt nửa thân người, tôi không còn khả năng tự lo vấn đề vệ sinh cá nhân nên các con tôi phải đưa tôi vào đây”.
Vì thấy cụ thân thiện, cởi mở, nên tôi nói tiếp những lời khích lệ: “Cụ còn có phước hơn nhiều người lắm, bởi các con của cụ ở gần, các anh chị ấy vào thăm viếng cụ dễ dàng hơn.”
Nói xong câu nói đó tôi mới thấy mình bị hố, bởi tôi đã vô tình gây xúc động cho vị cao niên này. Bằng gương mặt buồn thảm và nước mắt lưng tròng, cụ đã nói với tôi trong nghẹn ngào:
“Vâng, tôi biết mình có phước hơn những người không có con cái ở gần. Dù sao thì các con tôi mỗi năm chúng nó cũng vào thăm tôi vài lần trong những ngày lễ lớn…”.
Tôi từng đọc một bài báo nói về một phụ nữ khoảng 65 tuổi, bị tai biến mạch máu não nên không còn đi đứng và nói năng gì cả. Được biết cách đó 26 năm, hai vợ chồng bà cùng sáu đứa con di cư sang Mỹ. Cũng giống như mọi người, họ bắt đầu lại từ đầu, làm đủ thứ nghề để mong sao con cái được ăn học nên người. Thời gian qua mau, các con của họ đã thành đạt, có nhà cao cửa rộng. Thời điểm đó, chồng bà phát hiện bị ung thư gan, nên quyết định về hưu sớm, bán hết nhà cửa, xe cộ, gom hết tiền bạc dọn về ở gần với sáu đứa con, tiền bạc chia cho các con giữ hết. Chồng đã qua đời vì bệnh ung thư ở thời kỳ cuối. Bà cũng bị tai biến mạch máu não và được đưa vào nhà dưỡng lão từ đó tới bây giờ. Sau đó vài tháng, bà bị nhà dưỡng lão từ chối không nhận bà nữa nên đề nghị các con bà đem bà về nhà chăm sóc. Các con bà đều từ chối với lý do bận đi làm, không có thời gian chăm sóc mẹ. Điều “thê thảm” nhất khi bà bị Medical từ chối bởi cơ quan chính phủ có bằng chứng là bà từng có tài sản do chồng bà để lại dưới tên của bà ấy, nhưng thực chất thì tài sản đó đang nằm trong tay các con của bà. Đây là câu chuyện thật trớ trêu. Một người làm việc vất vả cả đời, nuôi đàn con khôn lớn nên người, mong về già để được thảnh thơi; vậy mà giờ đây, nhà của các con cháu không về ở được, mang tiếng có tiền mà không xài được, uất ức trong lòng nói cũng không xong.
Không biết người đàn bà đáng thương này nằm trong viện dưỡng lão có được con cháu vào thăm viếng không, hay là vì quá bận nên con cháu của bà không thể vào thăm bà được, như đã nói?
Tôi xin quý độc giả giúp cho tôi phần kết luận chứ tôi không còn ý gì để viết tiếp.

Huỳnh Quốc Bình

Email: huynhquocbinh@yahoo.com

http://www.huynhquocbinh.net

Lễ Giáng Sinh có từ bao giờ?

// ,
Lễ Giáng Sinh có từ bao giờ?

      Hàng năm cứ vào ngày 25 tháng 12 là chúng ta mừng Lễ Giáng Sinh, ngày Chúa Giêsu ra đời, nhưng ít ai để ý thắc mắc Chúa có thực sự sinh ra vào ngày này không hay lễ này có từ bao giờ.

      Kinh Thánh không thấy có chỗ nào nói đến các môn đệ của Chúa Giêsu mừng Sinh nhật của Chúa. Vậy thì ngày lễ nghỉ này ở đâu mà ra, và Kinh Thánh có đồng ý hoặc chấp nhận ngày lễ này không? Những câu hỏi như vậy có ý nghĩa gì khi mà mục đích của chúng ta là vinh danh mừng Chúa ra đời và đem các gia đình lại gần với nhau, chúc cho nhau được bình an và đất nước có hòa bình, dân tộc yêu thương.

      Diễn viên hài hước nổi tiếng của Hoa Kỳ Drew Carey trong một cuộc phỏng vấn do  Talk Show The View trên truyền hình thực hiện đã làm cho khán thính giả ngỡ ngàng khi ông khuyên mọi người phải nói sự thật về nhân vật Ông Già Noel/Santa Claus.

      -“Tôi nghĩ rằng –ông nói- cha mẹ và người lớn không nên nói cho trẻ nít là có ông già Noel / Santa Claus thực sự. Đây quả là lời nói dối đầu tiên mà quí vị đã nói với con cháu quí vị.” Ông khuyên mọi người hãy nói thiệt cho chúng biết là “ông già Noel chỉ là nhân vật chúng ta  tạo ra để có cớ mừng mùa lễ nghỉ mà thôi”.

      -“Khi chúng lên 5 tuổi –ông nói thêm- chúng sẽ nhận ra là cha mẹ chúng đã nói láo với chúng suốt cả đời chúng.”

      Trước đó trong cùng một năm, đài truyền hình The Arts & Entertainment đã đưa ra một chương trình về Lễ Giáng Sinh gọi là Christmas Unwrapped: The History of Christmas. Người trình diễn đã nêu câu hỏi:

      -“Trên khắp thế giới người ta mừng lễ Chúa Kitô ra đời vào ngày 25 tháng 12, nhưng tại sao Chúa Giáng Sinh lại đi đôi với việc tặng quà, và Chúa có thực sự giáng trần vào ngày tháng đó hay không? Cây Giáng Sinh / Christmas Tree ở đâu mà ra?

      Ngược giòng lịch sử để tìm hiểu nguồn gốc các ngày lễ nghỉ truyền thống của Tây Phương, thì thấy rằng Lễ Giáng Sinh có nguồn gốc từ những ngày lễ hội của dân ngoại là lễ mừng thần Saturn của người La Mã được phổ biến từ năm 217 BC. Khởi đầu họ ăn mừng vào dịp Đông Chí, từ ngày 17 đến 23 tháng 12.

      Như vậy cả ông già Noel/Santa Claus lẫn lễ Giáng Sinh thực ra chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Santa Claus chỉ là nhân vật giả tưởng và Lễ Giáng Sinh cùng với những trang trí của nó là do từ những ngày lễ hội của dân ngoại La Mã mà ra.

      Phải chăng đó chỉ là những tập tục truyền thống cổ xưa chứ chẳng phải là những gì thực tiễn chúng ta có thể nhìn thấy được? Nếu cứ tiếp tục tham dự những lễ hội đó thì có hữu ích gì không?

LỄ  THẦN  MẶT  TRỜI  

       Nói là lễ Giáng Sinh có từ trước thời Chúa Giêsu sinh ra thì có vẻ kỳ lạ và vô lý. Nhưng Lễ Giáng Sinh /Christmas quả thực lại có liên hệ đến thời đại trước Chúa Giêsu Kito rất nhiều.

        Những chi tiết mừng lễ Giáng Sinh đều có vết tích của thời cổ Ai Cập, Babylon và La Mã. Sự kiện này thực ra cũng chẳng làm tổn thương gì danh chúa Giêsu, nhưng nó đặt thành nghi vấn về sự hiểu biết và khôn ngoan của những người mà, từ cả ngàn năm rồi, vẫn còn cho rằng cái ngày lễ hội của dân ngoại là vĩnh cửu và đang được lan truyền trên khắp thế giới là ngày lễ Chúa Giáng Sinh.

      Giáo Hội sơ khai chắc cũng rất ngạc nhiên khi thấy những tập tục xưa cổ của họ bị chúng ta ngày nay đem nhập vào lễ Giáng Sinh mừng ngày Chúa ra đời. Việc gán ghép danh Chúa Kito với ngày lễ nghỉ của dân La Mã không phải chỉ có từ nhiều thế kỷ nay đâu. Alexander Hislop đã viết trong sách của ông The Two Babylons: “Nhiều nhà văn nổi tiếng và uyên bác thuộc nhiều hệ phái khác nhau cũng công nhận rằng ‘Ngày Chúa sinh ra vẫn không thể xác định được’, và trong Giáo Hội Kito giáo, ngày lễ gọi là Lễ Giáng Sinh cũng chưa bao giờ nghe nói đến cho tới thế kỷ thứ 3, và cũng không phải tới thế kỷ thứ 4 người ta mới giữ ngày lễ này đâu.” (1959, pp.92-93).

      Còn về ngày 25 tháng 12 trở thành ngày Lễ Giáng Sinh thì thực ra các sách viết về lịch sử các ngày lễ nghỉ cho biết đó là ngày đế quốc La Mã mừng Sinh nhật thần mặt trời.  Lý do chọn ngày 25/12 là ngày sinh nhật chúa Giêsu thì sách 4000 Years of Christmas ghi: “Vì ngày đó là ngày thánh , không phải chỉ đối với dân ngoại La Mã mà cả một tôn giáo lớn ở Ba Tư / Persia tức Iran bây giờ, mà hồi đó là một trong những tôn giáo đối thủ  mạnh nhất của Kito giáo. Đạo này thờ thần Mithra gọi là Mithraism[1], tức thờ mặt trời, ăn mừng ngày mặt trời mọc trở lại, thêm sức mạnh cho họ (Earl and Alice Count, 1997, p.37).

      Không phải chỉ có ngày 25/12 là ngày vinh danh sinh nhật mặt trời, mà còn là ngày lễ hội mà các quốc gia dân ngoại vẫn giữ từ lâu để mừng những ngày sáng sủa được kéo dài ra sau thời kỳ Đông Chí là những ngày ngắn nhất trong năm. Trước Lễ Giáng Sinh lúc đó còn có ngày lễ hội thờ ngẫu tượng vào giữa mùa đông có đặc điểm là ăn uống bừa phứa và mặc sức trụy lạc, đánh dấu thời kỳ Tiền Kito Giáo từ nhiều thế kỷ trước.

MỘT KẾT HỢP NHỮNG TẬP TỤC TIỀN KITÔ GIÁO

      Lễ hội xưa cổ này với thời gian đã có nhiều danh hiệu khác nhau qua nhiều nền văn hóa khác nhau. Tại Roma, người ta gọi là lễ Saturnalia để vinh danh thần Saturn, một thần nông nghiệp của người La Mã. Lễ này đã xâm nhập vào giáo hội Roma sơ khai và được đặt tên là Christ (“Christ mass” hay là Christmas) để thâu nhận những người tân tòng mà họ không muốn bỏ tập tục này của họ đi, đồng thời để nâng cao con số giáo dân của Kitô giáo.

      Những vị lãnh đạo Công Giáo ở thế kỷ 3 họ có khuynh hướng muốn tiếp cận với dân ngoại, nhưng đã bị Tertullian, một nhà thần học công giáo lúc bấy giờ phê phán một cách khá chua chát. Năm 230 khi nói về sự bất nhất của người Kito giáo, ông đã nói lên cái tương phản giữa người công giáo và dân ngoại trong việc hành đạo; người công giáo dùng chính sách co dãn mưu mẹo trong khi dân ngoại họ vẫn triệt để trung thành với niềm tin của họ. Ông viết:     

      -“Đối với chúng ta là những người xa lạ với ngày hưu lễ Sabbaths, và cả những ngày  trăng rằm lẫn ngày lễ hội mà có lúc đã được chấp nhận dành cho Chúa (coi  Cựu Ước Sách Levi 23: Nghi thức các lễ hội trong năm, hiện giờ không còn giữ nữa) như lễ Saturnalia, những ngày lễ tháng Giêng, lễ Brumalia và lễ Matronalia thì bây giờ lại đem ra thực hành; quà tặng được trao qua lại cho nhau, những tặng vật ngày đầu năm được thực hiện rất nhộn nhịp, những cuộc vui chơi thể thao và tiệc tùng được tổ chức tưng bừng. Nhưng trái lại, những người theo tà giáo lại trung thành nhiều hơn với tín ngưỡng của họ mà chẳng thèm để ý đến những lễ lạc của người Kito giáo” (Hislop, p.93).

      Thất bại trong việc cải giáo dân ngoại, những vị lãnh đạo Giáo Hội La Mã bắt đầu điều đình để đưa những hình ảnh tập tục tà đạo lên y phục của Kito giáo. Nhưng thay vì biến cải niềm tin của họ về với giáo hội, giáo hội lại bị biến đổi, hội nhập vào những tập tục không phải là Kito giáo ngay chính trong việc hành đạo của mình.

      Mặc dù lúc đầu Giáo Hội Công Giáo sơ khai đã kiểm duyệt, muốn bãi bỏ việc mừng lễ này, nhưng “nó đã xâm nhập quá sâu rộng trong dân chúng khó lòng xóa bỏ đi được. Cuối cùng Giáo Hội đành phải chấp nhận, vì nghĩ rằng nếu không thể hủy bỏ được thì phải biến nó thành lễ “Giáng Sinh” tôn vinh Chúa Kito. Một khi được gắn cho cái nhãn hiệu nền tảng là Kito giáo thì ngày lễ hội trở thành chính thức ở Âu Châu với rất nhiều dấu vết của dân ngoại mà chẳng ai còn thắc mắc nữa”. ( Man, Myth & Magic: The Illustrated Encyclopedia of Mythology, Religion, and the Unknown, Richard Cavendish, editor 1983, Vol.2, p.480, “Christmas”)

ĐÃ QUYẾT ĐỊNH THÌ CỨ LÀM

      Một số người đã thẳng thắn phản đối việc làm như vậy vì cho rằng có hại về mặt thiêng liêng. “Những vị đó đã cố gắng ngăn cản sóng thủy triều, nhưng dù có biết bao cố gắng để ngăn chặn, việc làm đó vẫn cứ tiếp tục, cho đến khi Giáo Hội hoàn toàn bị tràn ngập bởi  những tập tục dị đoan của dân ngoại. Đó là Lễ Giáng Sinh nguyên thủy, ngày lễ của dân ngoại, nó đã trở thành hiện thực không chối cãi được. Ngày tháng trong năm và những nghi lễ mà hiện vẫn còn cử hành đã nói lên  nguồn gốc của nó” (Hislop p.93).

      Nhà thần học Tertulian nói trên đã tách ra khỏi giáo hội Roma vì bất đồng chính kiến. Ông không phải là người duy nhất bất đồng với ý tưởng đó. “Vào cuối năm 245, Origen, trong bài giảng thứ 8 về sách Levi, đã khước từ ý tưởng giữ ngày sinh nhật của Chúa Kitô như là một ông vua Pharaoh”. (The Encyclopaedia Britannica, 11th edition, Vol 6, p.293, “Christmas”).

      Lễ Giáng Sinh chỉ được công nhận là ngày lễ nghĩ của La Mã vào năm 534 (ibid). Như vậy phải mất 300 năm cái tên mới cùng với những biểu tượng của Lễ Giáng Sinh mới thay thế những tên cũ và ý nghĩa của ngày lễ hội giữa mùa đông, một ngày lễ hội của dân ngoại có từ nhiều thế kỷ trước.

NGUỒN GỐC ÔNG GIÀ NOEL/SANTA CLAUS     

      Làm sao ông già Noel/Santa Claus lại xuất hiện với đầu tóc bạc phơ và bộ râu dài lê thê tới rốn? Tại sao hình ảnh thần thoại này lại được gắn liền với Lễ Giáng Sinh?

      “Santa Claus” nghĩa là sự suy đồi của Mỹ Châu, từ tiếng Đức mà ra là Sinterklaas, chữ viết ngắn lại của Sint Nikolaas, một hình ảnh do một người di dân Đức hồi sơ khai mang qua Mỹ Châu. Danh xưng này, sau được đổi lại thành St.Nicholas, tên một vị giám mục ở thị trấn Myra ở Nam Tiểu Á, một vị thánh công giáo tử vì đạo mà người Hy Lạp và Latin tôn kính vào ngày 6 tháng 12.

      Thánh Nicholas là giám mục thành Myra sống vào thời hoàng đế La Mã Diocletian trị vì. Ông bị hành quyết vì niền tin công giáo, bị tra tấn, hành hạ và bỏ ngục, cầm tù cho tới triều đại Constantine là thời kỳ tương đối dễ dãi hơn. (The Encyclopaedia Britannica, 11th edition, Vol.19,p.649, “Nicholas, St.”). Còn nhiều chuyện nữa mà người ta cho rằng có liên quan tới Christmas và St.Nicholas, tất cả những việc phải làm như là tặng quà cho nhau vào ngày trước lễ thánh Nicholas, sau này được chuyển qua là lễ Giáng Sinh (ibid). Đó phải chăng là lý do của tập tục tặng quà nhau trong dịp Giáng Sinh?

      Đến đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn, làm sao một giám mục từ miền bờ biển Địa Trung Hải nắng ấm của Thổ Nhĩ Kỳ lại có thể liên quan tới một ông già sống ở miền cực Bắc ngồi trên chiếc xe trượt tuyết kéo bởi nhũng con nai bay lướt ở trên trời?

      Đành rằng chúng ta đã biết là Lễ Giáng Sinh nguồn gốc từ trước thời đại Kito Giáo, chúng ta cũng không ngạc nhiên thấy rằng Santa Claus chẳng là gì cả ngoài những hình ảnh được sao chép lại từ niềm tin tôn giáo của dân ngoại thời cổ xa xưa.

      Những hình ảnh tưởng tượng có tính phỉnh gạt liên quan tới ông già Santa Claus với bộ quần áo màu đỏ, mũ đỏ, có viền lông trắng, xe trượt tuyết và nai bay trên trời cũng cho thấy nguồn gốc từ miền giá lạnh xa vời ở cực Bắc. Cũng có những nguồn tin cho rằng Santa Claus có dấu vết liên hệ đến các vị thần Odin (hay Woden) và Thor ở Bắc Âu / Na Uy cổ xưa (Count, pp.56-64). Thần Odin được hình dung với bộ râu dài trắng toát, mà tục truyền rằng đã bay trên trời bằng con ngựa  8 chân Sleipnir.

      Một vết tích khác, mặc dù rất xa xưa, là Santa Claus có liên hệ tới thần Mặt Trời Saturn của La Mã và thần Silenus của Hy Lạp, bạn đồng hành và là giám hộ của thần rượu Dionysus ( William Wash, The Story of Santa Claus, pp.70-71).

 CÓ PHẢI CHÚA GIÊSU SINH RA VÀO THÁNG 12 KHÔNG ?

      Những học giả kinh thánh uy tín nghiên cứu về ngày sinh của Chúa Giêsu đã đi đến kết luận là chẳng có một dữ kiện căn bản nào cho thấy chúa sinh ra vào khoảng ngày 25 tháng 12.  Alexander Hislop nêu rõ là:

     -“Không có một chữ nào trong Kinh Thánh nói rõ ràng ngày giờ sinh tháng đẻ của Chúa cả. Những điều  đã ghi chép lại cũng chẳng ám chỉ là Chúa sinh ra vào ngày 25/12.   

     -“Lúc mà các thiên thần báo tin Chúa sinh ra cho các trẻ chăn chiên ở Bethlehem là lúc chúng đang cho chiên bò ăn ở giữa cánh đồng trống lúc đêm tối. Khí hậu ở Palestine từ tháng 12 đến tháng 2 là thời gian lạnh buốt ghê gớm, và theo tục lệ thì  thời gian đó không phải là thời gian các mục đồng ở xứ Judea canh chừng súc vât của chúng ở ngoài đồng trống, mà thực sự chậm lắm là chỉ tới cuối tháng 10 thôi” (p.91, emphasis in original).

      Ông tiếp tục cắt nghĩa là mưa thu bắt đầu rơi vào tháng 9 hoặc tháng 10 ở Judea có nghĩa là những biến cố xẩy ra chung quanh ngày Chúa ra đời được ghi trong Kinh Thánh không thể xẩy ra sau trung tuần tháng 10. Vậy ngày Chúa sinh ra có thể là vào khoảng đầu thu (p.92).

      Một sự kiện nữa yểm trợ cho ý kiến Chúa Giêsu sinh vào mùa Thu là người La Mã rất khôn ngoan và thông minh, họ sẽ không định thời gian kiểm tra dân số vào chính giữa mùa đông, lúc khí hậu rất khắc nghiệt, mà phải vào thời gian với những điều kiện thời tiết dễ chịu hơn nhiều.

      Ông Giuse là dân Bethlehem nên phải di chuyển gia đình từ Nazareth , xứ Galilee về Bethlehem cùng với vợ là Mary đang có thai sắp đến ngày sanh. Do đó không có lý do gì mà ông cùng với Mary lại làm một cuộc hành trình dài vào mùa đông giá lạnh như vầy. Theo Tin Mừng Phúc Âm thánh Luca thì Mary hạ sanh chúa Giêsu vào đúng thời gian hoàng đế La Mã là Augustine cho kiểm tra dân số trên cả nước, mà theo sự khôn ngoan chẳng ai lại lên chương trìng này vào tháng 12 giá lạnh cả.

KẾT  CỤC:  CÓ GÌ  KHÁC  BIỆT  KHÔNG?

      Kinh Thánh thì chẳng đưa ra lý do gì -và chắc chắn cũng không có một chỉ dẫn nào- để yểm trợ cho câu chuyện Lễ Giáng Sinh và Ông già Noel/Santa Claus. Nhưng lễ Giáng Sinh với ông già Noel / Santa Claus thì vẫn là một sự thực, một tập tục, một thói quen đã được chấp nhận và trở thành hiển nhiên chẳng ai thắc mắc. Christmas / Lễ Giáng Sinh là lễ kỷ niệm ngày chúa Giêsu sinh ra để cứu chuộc nhân loại. Ông già Santa Claus thì là một nhân vật thần thoại giả tưởng làm chuyện vui cho trẻ nít, câu chuyện luân lý để dạy trẻ nít biết vâng lời bố mẹ, ngoan ngoãn. Người lớn thì có dịp nghỉ thư dãn, tặng quà, kỷ vật cho nhau, gia đình xum họp trong cảnh thanh bình ấm cúng thương yêu. Ngoài những sinh hoạt êm ấm trong gia đình còn có những sinh hoạt ồn ào bên ngoài như hội hè, tụ họp ăn uống, nhậu nhẹt, nhảy đầm vui chơi…..

     Lễ Giáng Sinh đã trở thành phổ quát trong dân gian trên khắp các nẻo đường thế giới, không riêng gì cho người Công Giáo / Kitô Giáo mà cho cả những người thuộc các tôn giáo khác hoặc vô thần…Những người không phải công giáo thì coi Lễ Giáng Sinh là dịp lễ hội, nghỉ thư dãn, vui chơi, ăn nhậu thả dàn. Ở Sàigon trước 1975 (tôi không biết bây giờ dưới chế độ XHCN thì thế nào), đêm Giáng Sinh, trong khi ở trong các thánh đường,  giáo dân tụ tập lại, chăm chú dâng lễ, đọc kinh, hát những bài thánh ca mừng Chúa ra đời, thì ngoài đường phố thiện nam tín nữ áo quần bảnh bao chen chúc nhau dạo phố, xe cộ và người qua lại như trẩy hội. Tôi không hiểu họ đi đâu?, để làm gì?. Cứ đi, cứ đi…theo giòng người đi như nước chảy. Xem đèn ông sao? Xem phố phường? Xem người? Xem xe cộ chạy? Ai mà biết nhỉ? Ở hải ngoại Hoa Kỳ, sau những ngày mệt mỏi shopping để tiêu tiền, mua quà tặng, sửa soạn giáng sinh, trang hoàng trong nhà ngoài ngõ, đêm Giáng Sinh người ta vui hưởng cảnh ấm cúng gia đình trong nhà nhiều hơn. Dĩ nhiên cũng có những hội họp chè chén nhậu nhẹt ngoài qu án rượu, tiệm ăn.

      Giáng Sinh đã phổ quát đến độ nó không còn giới hạn trong phạm vi tôn giáo nữa. Họ chúc nhau một mùa nghỉ vui tươi đầm ấm và hạnh phúc. Ngày nay có những  phong trào / tư tưởng không gọi ngày lễ này là Lễ Giáng Sinh mà gọi là Mùa Lễ Nghỉ. Holidays Season. Người ta ăn chơi hưởng thụ, làm bất cứ cái gì họ muốn trong khi trong các thánh đường đèn nến sáng trưng, vẫn vang vọng tiếng hát mừng Chúa ra đời:  

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người thiện tâm

      Lễ Giáng Sinh hiển nhiên vẫn là biểu hiệu của Bình An và Hòa Bình của Chúa Cứu Thế. Đâu có gì phải chê trách, có chăng là tâm con người vẫn không có hòa bình và tình yêu thương.

Fleming Island, Florida

Nguyễn Tiến Cảnh                                                                                                              

[1] A pagan religion consisting mainly of the cult of the ancient Indo-Iranian Sun-god Mithra. It entered Europe from Asia Minor after Alexander’s conquest, spread rapidly over the whole Roman Empire at the beginning of our era, reached its zenith during the third century, and vanished under the repressive regulations of Theodosius at the end of the fourth century. Of late the researches of Cumont have brought it into prominence mainly because of its supposed similarity to Christianity. (Catholic Encyclopedia: Mithraism) 

Powered by Blogger.