Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Mỹ - TQ đang dự thảo thỏa thuận, sắp chấm dứt chiến tranh thương mại?

Friday, February 22, 2019 // ,

Hãng tin Reuters dẫn lời các nguồn tin cho biết, Mỹ và Trung Quốc đã bắt đầu dự thảo các cam kết về những vấn đề "khó nhằn" nhất trong tranh chấp thương mại giữa 2 nước.

Hai đoàn đàm phán
Theo Reuters, động thái này đánh dấu tiến triển đáng kể nhất từ trước tới nay nhằm kết thúc cuộc chiến thương mại kéo dài 7 tháng.
Hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đã đưa ra hàng loạt các biện pháp thuế quan trả đũa lên hàng tỷ USD hàng hóa lẫn nhau, làm chậm lại tăng trưởng kinh tế thế giới, làm xáo trộn chuỗi cung ứng và sản xuất.
Trong khi các quan chức cấp cao đàm phán vào thứ Năm và thứ Sáu tuần trước tại Washington, giữa hai bên vẫn tồn tại sự khác biệt về các yêu cầu mà chính quyền Tổng thống Trump nêu ra đối với các thay đổi về mặt cấu trúc của nền kinh tế Trung Quốc.
Nhưng một bản kế hoạch về những yếu tố có thể làm nên một thỏa thuận đang bắt đầu được xuất hiện trong các cuộc đàm phán, trong bối cảnh hai nước đang thúc đẩy một thỏa thuận vào hạn chót 1/3, một nguồn tin của Reuters cho hay.
Các nhà đàm phán đang dự thảo 6 Biên bản ghi nhớ về những vấn đề như ăn cắp công nghệ và ép buộc chuyển giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ, dịch vụ, tiền tệ, nông nghiệp và các rào cản phi thuế quan với thương mại, theo 2 nguồn tin khác.
Đây là các vấn đề phức tạp nhất ảnh hưởng đến mối quan hệ thương mại giữa hai nước. Và một nguồn tin cảnh báo, các cuộc đàm phán vẫn có thể kết thúc trong thất bại. Nhưng việc có được các Biên bản ghi nhớ là một bước quan trọng trong việc buộc Trung Quốc cam kết cả về nguyên tắc chung và các điều khoản cụ thể.
Hai bên cũng đã thảo luận về một cơ chế thực thi thỏa thuận, nguồn tin cho biết. Reuters tháng trước đưa tin, Washington đang thúc đẩy các đánh giá thường xuyên về tiến bộ của Trung Quốc về cải cách thương mại đã cam kết và có thể khôi phục thuế quan nếu Bắc Kinh vi phạm thỏa thuận.
Các bên cũng đang xem xét một danh sách gồm 10 hạng mục về cách Trung Quốc có thể giảm thặng dư thương mại với Mỹ, bao gồm tăng mua hàng hóa nông sản, năng lượng và hàng hóa như chất bán dẫn, theo hai nguồn khác của cuộc đàm phán.
Thời gian đang tiến nhanh về hạn chót 1/3 để giải quyết các tranh chấp hoặc Mỹ sẽ xem xét nâng mức thuế quan từ 10% lên 25% với 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc.

Nhìn lại một số nét nổi bật về chính sách của Mỹ trong vấn đề Biển Đông


Những năm gần đây, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, trở thành một vấn đề nóng bỏng, thu hút mạnh sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Tính chất phức tạp của vấn đề Biển Đông có nguy cơ đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực. Hiện trạng này đã và đang làm dấy lên sự quan ngại sâu sắc của các quốc gia về an ninh trên Biển Đông. Mỹ với vai trò là cường quốc hàng đầu trên thế giới, có lợi ích cốt lõi ở Biển Đông đã, đang và sẽ tiếp tục hiện diện ở khu vực nhằm đảm bảo lợi ích cũng như hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Biển Đông có vai trò quan trọng đối với Mỹ
Có thể nhận thấy Mỹ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông:
Đầu tiên, Mỹ lo ngại về quyền tự do đi lại trên biển và nhu cầu bảo vệ hoạt động kinh doanh của các công ty năng lượng Mỹ, nói rộng ra là lợi ích kinh tế của Mỹ trong khu vực. Đối với Mỹ, Biển Đông là một mắt xích quan trọng trong sự điều chỉnh chiến lược từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu Á - Thái Bình Dương. Là một cường quốc biển có vị trí địa lý được bao bọc bởi hai đại dương, Mỹ luôn quan tâm đến vai trò của biển và quyền lực biển đối với xây dựng, phát triển và bảo vệ an ninh đất nước. Các chiến lược gia Mỹ coi việc kiểm soát đại dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là nhân tố chính trong việc kiểm soát thế giới. Điều này lý giải vì sao từ rất sớm, Mỹ đã hoạch định chiến lược kiểm soát đại dương, xây dựng lực lượng hải quân hùng hậu nhất thế giới, lấy đó làm cơ sở để xác lập và mở rộng ảnh hưởng trên tất cả các đại dương. Chính vì vậy, mối quan tâm đến Biển Đông gần như là điều đương nhiên với Mỹ. 
Thứ hai,trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, vùng biển này ngày càng chiếm giữ vị thế quan trọng trong chiến lược biển, quyền lực biển của Mỹ do Biển Đông tiếp tục là một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất, quan trọng nhất của thế giới nối liền châu Âu với châu Á, Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. 
Thứ ba là sự dịch chuyển cán cân quyền lực thế giới từ châu Âu sang châu Á, mà sự dịch chuyển này lại liên quan trực tiếp đến sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực. Trung Quốc ngày càng trở thành nhân tố chủ chốt đe dọa vị thế siêu cường thế giới duy nhất của Mỹ.     
Như vậy, lợi ích của Mỹ ở Biển Đông bao gồm các loại lợi ích đa dạng về tự do hàng hải, kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh, mà những lợi ích này là không thay đổi. Đông Nam Á cùng các tuyến đường trên Biển Đông có thể cung cấp cho Mỹ một vị trí dễ dàng tiếp cận về phía Nam lục địa. Kết hợp với việc tăng cường sự có mặt về quân sự ở Trung Á, liên minh chặt chẽ hơn với Nhật Bản về quân sự và an ninh ở phía Đông, Đông Nam Á có thể giúp Mỹ tạo thành vành đai chiến lược từ phía Tây xuống phía Nam và kéo sang phía Đông để bảo vệ lợi ích của Mỹ và các đồng minh ở đây.           
Chính sách của Mỹ đối với các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông          
Trong giai đoạn chính quyền Tổng thống Barach Obama, chính sách Biển Đông của Mỹ được thể hiện trong Tuyên bố Hà Nội của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ngày 24/7/2010. Tuyên bố Hà Nội có thể được hiểu như một phần của chính sách “tái can dự” hay “nước Mỹ đã trở lại” của chính quyền Obama đối với vấn đề Biển Đông, có thể khái lược thành những điểm sau: (i) Mỹ cũng như các quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do thông thương hàng hải, quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. (ii) Mỹ ủng hộ tiến trình đàm phán hòa bình giữa tất cả các bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Mỹ phản đối bất kỳ sự sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên nào.  (iii) Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông. (iv) Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với Tuyên bố năm 2002 giữa Trung Quốc và ASEAN về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông. (v) Các bên có tranh chấp theo đuổi các tuyên bố chủ quyền và các quyền kèm theo đối với vùng biển phải phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật biển. Như vậy, một mặt, Mỹ vẫn theo đuổi chính sách trung lập, không đứng về bên nào, mặt khác, đang ngày càng dính líu sâu vào quá trình giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trên Biển Đông.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Tổng thống Donald Trump nắm quyền, chính sách của Mỹ trong vấn đề Biển Đông tiếp tục được duy trì, song có một số bước điều chỉnh chiến lược. Trong đó nhấn mạnh vào vấn đề tự do hàng hải và kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Chính sách Biển Đông của Chính quyền Tổng thống Donald Trump được thể hiện trên các khía cạnh chính trị - ngoại giao, quân sự, và pháp lý.
Trước tiên, về khía cạnh chính trị - ngoại giao, ngay sau khi đắc cử, Tổng thống Donald Trump đã sớm khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì trật tự hàng hải, phản đối đe dọa, cưỡng ép và sử dụng vũ lực, kêu gọi các bên kiềm chế, tránh leo thang căng thẳng. Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Branstad cho biết trong cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Donald Trump đã nêu “quan ngại về việc xây dựng và quân sự hóa tiền đồn ở Biển Đông” của Trung Quốc; nhấn mạnh tầm quan trọng thiết yếu của việc giải quyết tranh chấp thông qua hòa bình, tiến hành hoạt động thương mại không bị cản trở và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông, bao gồm tự do hàng hải của các hoạt động trên biển, trên không cũng như khai thác biển một cách hợp pháp. Mới đây, Mỹ tái khẳng định sẽ “tăng cường cam kết với tự do hàng hải, giải quyết hòa bình tranh chấp hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế”.
Trên khía cạnh quân sự, “duy trì hòa bình thông qua sức mạnh” được Mỹ coi là một trong ba trụ cột của Chiến lược Quốc phòng. Với vấn đề Biển Đông, để bảo đảm an ninh, hòa bình, phát triển và thịnh vượng, Mỹ nhấn mạnh: (i) Duy trì hiện diện quân sự tiền phương có khả năng ngăn chặn; (ii) Tăng cường quan hệ quân sự lâu dài và khuyến khích phát triển mạng lưới quốc phòng mạnh với đồng minh và đối tác; (iii) Tăng cường hợp tác tình báo quốc phòng và thực thi pháp luật với đối tác Đông Nam Á; (iv) Tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng với Ấn Độ; nạp mới năng lượng cho quan hệ đồng minh với Philippines và Thái Lan, tăng cường quan hệ với các đối tác và các nước khác. Về ngân sách quốc phòng, Tổng thống Donald Trump đã ký Đạo luật Ủy quyền quốc phòng (NDAA) lên tới 700 tỷ USD trong năm tài chính 2018, tăng hơn 80 tỷ USD so với năm 2017, cho Bộ Quốc phòng. Mức chi cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện vẫn chưa rõ song sẽ góp phần duy trì và ổn định hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực này. Bên cạnh việc tiếp tục triển khai Sáng kiến An ninh hàng hải (MSI) từ chính quyền tiền nhiệm, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Quốc hội khi 05 Hạ nghị sỹ và 08 Thượng nghị sỹ của cả hai đảng viết thư (tháng 3/2017) đề nghị Bộ trưởng Quốc phòng Mattis ủng hộ Sáng kiến Ổn định châu Á - Thái Bình Dương (ASPI) do Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện McCain đề xuất vào tháng 01/2017. Đáng chú ý, quá trình triển khai quân sự trên thực tế ghi nhận 06 cuộc tuần tra của hải quân Mỹ trong năm 2017, tăng gấp đôi số cuộc tuần tra so với toàn bộ nhiệm kỳ cuối của Tổng thống tiền nhiệm Barack Obama. Từ năm 2018 đến nay, hải quân Mỹ đã tiến hành 10 chiến dịch tự do hàng hải ở Biển Đông, trong đó có nhiều cuộc tuần tra trong khu vực 12 hải lý quanh các đảo, đá do Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa. Đáng chú ý, hoạt động tự do hàng hải đúng nghĩa (FONOP) đầu tiên của Chính quyền Tổng thống Donald Trump quanh phạm vi 12 hải lý xung quanh đá Vành Khăn (Mischief Reef), 01 trong 07 cấu trúc thuộc Trường Sa được bồi đắp tôn tạo thành đảo nhân tạo bởi Trung Quốc, là thực thể hoàn toàn chìm dưới nước khi thủy triều dâng, được Trung Quốc tôn tạo ở quy mô lớn nhất và xây dựng đường băng dài 03 km.
Về khía cạnh pháp lý, Chính quyền của Tổng thống Donald Trump tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng thiết yếu của việc giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông, bao gồm tự do hàng hải của các hoạt động trên biển và trên không cũng như khai thác biển một cách hợp pháp khác. Cuối năm 2018, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký thông qua Đạo luật Sáng kiến Trấn an châu Á (ARIA). ARIA là phiên bản châu Á của Sáng kiến Trấn an châu Âu (tháng 6/2014, sau đó đổi tên thành Sáng kiến Ngăn chặn ở châu Âu) và tiếp nối Đạo luật Chống các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA) tháng 8/2017. Điểm khác biệt là ARIA coi trọng các biện pháp chính trị, ngoại giao, đề cao tăng cường mạng lưới đồng minh, đối tác cả song phương và đa phương, cam kết tài chính cụ thể. ARIA nhấn mạnh cần tập trung nguồn lực chống ảnh hưởng của Trung Quốc phương hại hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ, nhất là ở Biển Đông, vấn đề vi phạm bản quyền và an ninh mạng, nhưng cũng để ngỏ khả năng hợp tác với Trung Quốc. ARIA cũng nêu nguy cơ hạt nhân Triều Tiên, khủng bố ở Đông Nam Á, đồng thời khuyến khích hợp tác kinh tế, thương mại, xuất khẩu năng lượng (khí hóa lỏng), thúc đẩy nhân quyền (ưu tiên truyền thống của quốc hội). Để chứng tỏ không nói suông, quốc hội Mỹ cam kết chi 1,5 tỷ USD từ 2019-2023, ưu tiên hỗ trợ đồng minh, khôi phục hợp tác Nhóm Bộ tứ sau 10 năm (từng được Thủ tướng Nhật Abe khởi xướng năm 2007 với tập trận chung Malabar), trong đó coi Ấn Độ là “đối tác quốc phòng chính”; tái khẳng định cơ sở pháp lý quan hệ với Đài Loan qua Đạo luật Quan hệ với Đài Loan, Sáu Đảm bảo của Reagan, Đạo luật Thăm Đài Loan tháng 3/2018 (Trung Quốc phản ứng mạnh nhất về nội dung này qua phát biểu 2/1 của ông Tập Cận Bình); kiến nghị chính quyền đàm phán một khuôn khổ can dự kinh tế toàn diện với ASEAN, chú trọng hợp tác nâng cao năng lực giám sát biển, không để Trung Quốc thao túng đàm phán COC ở Biển Đông. Đạo luật mới cũng cam kết tiếp tục triển khai sáng kiến hạ nguồn sông Mekong về môi trường, giáo dục, y tế, hạ tầng, với thông điệp là Washington sẵn sàng chi tiền cho sáng kiến này. Đây có thể coi là điểm tích cực khi chính quyền TT Trump đến nay hầu như bỏ rơi sáng kiến từng được hai chính quyền tiền nhiệm của Bush và Obama coi trọng.
Ngoài ra, để triển khai chính sách ở Biển Đông, Mỹ chia ra các tầng nấc hợp tác trong vấn đề Biển Đông. Ở tầng cấu trúc khu vực, Mỹ coi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) là “trung tâm” của chính sách Ấn Độ - Thái Bình Dương, là “nền tảng thúc đẩy trật tự dựa trên tự do”. Nếu như APEC thiên về cấu trúc kinh tế, thì ASEAN (cùng các cơ chế khác do ASEAN dẫn dắt, như Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)…) lại có vai trò trụ cột trong các vấn đề phi kinh tế khác, trong đó có an ninh hàng hải. Chiến lược quốc phòng của Mỹ (tháng 01/2018) nhấn mạnh sẽ tăng cường quan hệ đối tác và đồng minh Ấn Độ - Thái Bình Dương để xây dựng kiến trúc an ninh ngăn chặn sự hung hăng, duy trì ổn định và bảo đảm tiếp cận tự do các lĩnh vực chung, bảo đảm hệ thống quốc tế tự do và mở rộng… Ở tầng chủ thể quốc gia, Ấn Độ được Chính quyền Tổng thống Donald Trump đề cao vai trò với tư cách là “đối tác quân sự chính yếu của Mỹ”. Các nước đồng minh (như Philippines, Thái Lan) và đối tác khác tiếp tục giữ vai trò quan trọng, song cần được “nạp mới năng lượng” để trở thành “đối tác hải quân hợp tác” của Mỹ. Trong chuyến thăm Indonesia vào tháng 01/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis khẳng định coi nước này là “điểm tựa hàng hải ở Biển Đông”.
Nhìn chung, Mỹ đóng vai trò  một quốc gia tạo đối trọng với Trung Quốc, duy trì sự cân bằng quyền lực và ổn định khu vực tại Biển Đông bằng cách tăng cường quan hệ với các quốc gia tranh chấp khác, đặc biệt về quân sự. Ngoài ra, Mỹ cũng để ngỏ khả năng can thiệp dưới danh nghĩa bảo đảm tự do hàng hải trong khu vực một khi có xung đột xảy ra, nghĩa là có thể đưa quân trở lại khu vực với mục đích đảm bảo an ninh cho các tuyến hàng hải. Theo đó, Mỹ xác định mục tiêu chiến lược ở Biển Đông như sau:  (i) Mỹ không thừa nhận cơ sở pháp lý của các đòi hỏi chủ quyền đối với Biển Đông của bất kỳ nước nào, kể cả Philippines (đồng minh truyền thống), nhằm tránh cho Mỹ khỏi dính líu vào cuộc chiến pháp lý phức tạp và chắc chắn sẽ kéo dài, làm hao tổn các nguồn lực của Mỹ. Tuy nhiên, lý do được xem là quan trọng hơn, đó là việc thừa nhận cơ sở pháp lý của các yêu sách chủ quyền của bất kỳ bên nào cũng sẽ bất lợi cho Mỹ. Nếu thừa nhận yêu sách chủ quyền của một bên, tức là Mỹ đã giúp cho bên đó có lợi thế hơn. Về phương diện chiến lược, nếu một nước nào đó làm chủ Biển Đông, ưu thế chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương sẽ nghiêng về họ, tuyến phòng thủ của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương có nguy cơ bị phá vỡ. Còn nếu Mỹ thừa nhận cơ sở pháp lý của các yêu sách chủ quyền của các nước Đông Nam Á có liên quan, Mỹ sẽ đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Trong bối cảnh còn phải đối phó với các vấn đề trong và ngoài nước, Mỹ không muốn tiếp tục bị lôi kéo vào một cuộc xung đột nữa, nhất là đối với Trung Quốc. (ii)Đảm bảo việc đi lại tự do trên các con đường quốc tế, ngăn cản việc giải quyết cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông bằng vũ lực. Trong số các bên tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, Trung Quốc có ưu thế vượt trội về quân sự, có thể tiến hành độc chiếm Biển Đông bằng quân sự. Việc chủ trương giải quyết vấn đề Biển Đông thông qua thương lượng đa phương sẽ tạo cơ hội cho Mỹ có tiếng nói trong quá trình giải quyết cuộc tranh chấp này. Từ đó vai trò và vị trí của Mỹ ở Đông Nam Á sẽ được nâng cao. (iii) Biển Đông là “quân cờ” quan trọng của Mỹ trong mục tiêu kiềm chế tham vọng của những nước muốn độc chiếm khu vực này, bởi nếu để xảy ra tình trạng đó, lợi ích chiến lược của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Ngoài ra, Mỹ muốn qua Biển Đông để thể hiện vai trò của Mỹ đối với thế giới thời kỳ “hậu Irắc”. (iv)Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ sau khủng hoảng tài chính khiến cho nhiều nước cho rằng vai trò của Mỹ đối với thế giới đang yếu đi. Để lấy lại hình ảnh và cũng là để trấn an dư luận quốc tế về sức mạnh của mình, Mỹ rất cần một địa điểm để làm mới vai trò của mình và  Mỹ đã lựa chọn Biển Đông.       
Một số bước triển khai chính sách của Mỹ đối với các bên tranh chấp tại Biển Đông    
Với các quốc gia ASEAN: Những năm gần đây, vị thế chiến lược cũng như sức mạnh của ASEAN không ngừng tăng lên. Vì vậy, ASEAN có một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Obama đã thực hiện nhiều thay đổi trong chính sách đối ngoại, mà đối với Đông Nam Á là một trong những thay đổi đáng kể nhất. Trong Báo cáo đánh giá quốc phòng bốn năm (2/2010), Lầu Năm Góc lần đầu tiên xác định cụ thể ba nhóm quốc gia chính ở khu vực “cần thiết phải tiếp tục nuôi dưỡng các quan hệ về quốc phòng” như sau: (i) Đồng minh chính thức (Thái Lan, Philippines); (ii) Đối tác chiến lược (Singapore); (iii) Đối tác chiến lược tiềm năng (Malaysia, Indonesia và Việt Nam). Đối với cả khối, Mỹ đã tiến một bước sâu hơn bằng việc ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) với các quốc gia ASEAN (7/2009); cử đại sứ đến ASEAN; cam kết thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp khu vực... Những động thái này đánh dấu bước tiến thực chất trong việc Mỹ tiến hành “tiếp xúc sâu sắc” đối với Đông Nam Á. 
Điều đáng chú ý là Mỹ nêu quan điểm rằng, giải quyết tranh chấp ở Biển Đông phải là công việc của cả ASEAN với Trung Quốc. Quan điểm này xuất phát từ những thực tế sau: Về địa lý, trừ Lào, Myanma, các nước còn lại đều tiếp giáp Biển Đông, vì vậy ASEAN hoàn toàn có lý do cùng hợp tác bảo vệ quyền lợi, an ninh ở Biển Đông. Về tương quan lực lượng, không một nước tranh chấp nào có đủ sức mạnh để đạt được một giải pháp hợp lý trong đàm phán song phương với Trung Quốc, vì vậy sức mạnh của cả ASEAN sẽ tạo nên một mức độ cân bằng tương đối với Trung Quốc. Do vậy, Mỹ đề cao vai trò đi đầu của ASEAN trong giải quyết tranh chấp khu vực, giúp ASEAN ngày càng mạnh lên đủ khả năng giữ cân bằng quan hệ với các cường quốc trong khu vực.  
Trong khi đó, các nước ASEAN muốn Mỹ đóng vai trò trong tranh chấp ở Biển Đông như một quốc gia đối trọng ảnh hưởng với Trung Quốc, có khả năng duy trì được sự cân bằng quyền lực và ổn định khu vực tại Biển Đông. Trên lĩnh vực ngoại giao, những tuyên bố của Mỹ cam kết đảm bảo tự do hàng hải và ổn định khu vực đã tạo được một mối an tâm nhất định cho các quốc gia ASEAN rằng Mỹ không đứng ngoài cuộc với tranh chấp. Trên thực tế, Mỹ cũng luôn ủng hộ những nỗ lực giữa các bên nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng con đường hòa bình theo tinh thần của UNCLOS 1982 và Tuyên bố ứng xử Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN (DOC) 2002. Đặc biệt là Mỹ đang tích cực ủng hộ đàm phán ASEAN - Trung Quốc về việc đi tới ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), nhấn mạnh rằng Bộ quy tắc cần đưa ra “khuôn khổ dựa trên các quy định có tính ràng buộc để ngăn chặn và quản lý tranh chấp”. Đồng thời, thông qua các cơ chế khu vực như Diễn đàn an ninh khu vực ARF, Hiệp ước TAC, ADMM+,... Mỹ đã đóng góp tiếng nói đối với việc duy trì an ninh khu vực tại Biển Đông. Trên lĩnh vực quân sự, việc Mỹ triển khai các hợp tác an ninh - quốc phòng với các quốc gia ASEAN đã giúp tăng cường khả năng đối trọng với Trung Quốc của những nước này.  Cụ thể, trong 5 năm gần đây, Mỹ đã cùng các nước ASEAN tiến hành hơn 30 cuộc tập trận, tức hơn 2/3 các cuộc tập trận ở châu Á. Bên cạnh đó, Mỹ đã đạt được một số thỏa thuận về đảm bảo hoạt động của quân đội Mỹ ở khu vực như tiếp tục sử dụng hai căn cứ Clark và Subic ở Philippines; quyền sử dụng các công trình quân sự của Thái Lan; thực hiện giai đoạn một Hiệp định xây dựng cảng nước sâu cỡ lớn cho quân đội Mỹ tại Singapore…         
Với Trung Quốc: Mỹ vừa là một đối tác ngoài khu vực, hợp tác với Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình, lại vừa là một nhân tố ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông. Mỹ vừa tranh thủ những cơ chế đối thoại, hợp tác với Trung Quốc nhằm xây dựng một giải pháp đa phương, lại vừa thực hiện các hoạt động do thám, nghiên cứu tại Biển Đông nhằm thăm dò sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc thực hiện hàng loạt các hành động cứng rắn, mang tính đơn phương, mở rộng quyền lực ra khắp vùng Thái Bình Dương, thách thức vai trò thống lĩnh Thái Bình Dương của Mỹ. Điều này đe dọa đến lợi ích của Mỹ cũng như hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên, trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ đang đứng trước những lựa chọn khó khăn, khi cả hai đều thuộc hàng nước lớn nhiều tham vọng và đều cần đến nhau. Trung Quốc cần công nghệ, đầu tư, thị trường, sự ủng hộ của Mỹ trên trường quốc tế; Mỹ cần thị trường Trung Quốc, những thỏa thuận hay sự hỗ trợ của nước này trong giải quyết các vấn đề lớn trên thế giới. Những lợi ích song trùng đó có thể là động lực mạnh mẽ giúp hai nước giảm bớt một số bất đồng. Vì vậy, trong vấn đề Biển Đông, Mỹ đặt ra mục tiêu hai mặt: vừa đòi hỏi Trung Quốc đóng vai trò xây dựng, đóng góp cho hòa bình, không gây ra mối đe dọa cho khu vực, vừa không để vấn đề Biển Đông trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc, tác động đến các lĩnh vực khác trong quan hệ song phương. Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ thực hiện chính sách hai mặt: vừa phối hợp vừa cạnh tranh, vừa hợp tác vừa kiềm chế Trung Quốc trên cơ sở mẫu số chung là không để quan hệ đi đến đổ vỡ. Để kiềm chế, ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Biển Đông, Mỹ tiếp tục điều tàu tới thăm dò hoạt động của Trung Quốc tại vùng biển này. Đã có những cuộc đụng độ xảy ra trên Biển Đông giữa Mỹ và Trung Quốc trong những năm gần đây. Phía Mỹ luôn khẳng định rằng “Mỹ thực thi quyền tự do đi lại trên biển trong khi cũng quan tâm tới việc tránh để xảy ra những sự việc đáng tiếc”.
Để mở rộng đối thoại hơn với Trung Quốc nhằm tránh những rủi ro khi giải quyết các vấn đề trên biển, Mỹ sử dụng các cơ chế tham vấn quốc phòng Mỹ - Trung; cơ chế phối hợp chính sách quốc phòng Mỹ - Trung; thỏa thuận tham khảo các vấn đề quân sự trên biển Mỹ - Trung. Mỹ đã nhiều lần tái khẳng định cam kết sẽ nỗ lực xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác với Trung Quốc, hoan nghênh Trung Quốc đóng vai trò năng động và tích cực hơn trong các vấn đề quốc tế. Mỹ cũng nhấn mạnh ủng hộ việc củng cố, tăng cường vai trò của các thể chế tại khu vực châu Á và mong muốn hợp tác với Trung Quốc để thúc đẩy mục tiêu đó. Nghĩa là khi hợp tác với Trung Quốc, Mỹ tiếp tục thu được lợi ích kinh tế, thúc đẩy các mục tiêu chính trị, lôi kéo Trung Quốc vào các khuôn khổ pháp lý, hạn chế các hành động đơn phương của Trung Quốc, đồng thời chia sẻ trách nhiệm với Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề khu vực. Thông qua đó, Mỹ còn khẳng định uy tín, ảnh hưởng đối với các nước khác trong khu vực. Cũng không ai đảm bảo rằng, một cuộc mặc cả, phân chia quyền lực Mỹ - Trung trên Biển Đông sẽ không xảy ra, và khi đó quyền lợi của các nước trong khu vực tất nhiên bị xếp hàng thứ yếu. Như vậy, mục tiêu và các bước triển khai chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông vẫn là kiềm chế, ngăn chặn Trung Quốc, không để nước này tăng cường sức mạnh đến mức có thể đe dọa các lợi ích của Mỹ, nhưng đồng thời vẫn coi trọng tính ổn định tương đối của mối quan hệ song phương, không để bất đồng trong vấn đề Biển Đông gây tổn hại đến quan hệ hai nước.

Vì sao Mỹ muốn triển khai siêu đại bác tới biển Đông?


Như tin đã đưa, Mỹ đã bày tỏ ý định triển khai siêu đại bác có tầm bắn gần 2.000km tới khu vực biển Đông. Hôm qua, bộ trưởng Lục quân Mỹ Mark Esper đã giải thích với các phóng viên về việc này.

Một hệ thống pháo phản lực tối tân của Mỹ
“Các bạn có thể tưởng tượng một kịch bản khi hải quân Mỹ cảm thấy không thể tiếp cận biển Đông do có sự hiện diện của các tàu chiến Trung Quốc, hay thứ gì đó”, ông Esper nói tại một cuộc họp báo.
“Chúng ta có thể, từ một vị trí cố định, trên một đảo hoặc một vài nơi khác, nhắm bắn các mục tiêu kẻ thù, các mục tiêu tàu chiến, từ khoảng cách rất xa, duy trì thế đối đầu và từ đó mở cửa, nếu các anh muốn, cho hải quân hay thủy quân lục chiến”.
Các cuộc thử nghiệm siêu pháo với tầm bắn mở rộng là một phần chương trình ứng dụng công nghệ siêu thanh của lục quân Mỹ, thứ mà các quan chức quân sự Mỹ một số năm trước đã quyết định không mang vào ứng dụng chế tạo vũ khí.
Khi tạp chí Task & Purpose hỏi ông Esper vì sao cần phải triển khau siêu pháo bắn xa gần 2.000km, ông đã giải thích rằng quân đội Mỹ cần có tầm bắn vượt qua vũ khí của đối phương.
“Anh muốn ở ngoài tầm bắn của đối phương (mà vẫn bắn được đối phương”, ông Esper nói.
“Vì sao giáo được phát triển? Bởi vì kẻ thù của chúng ta có kiếm. Giáo giúp chiến binh tăng tầm tấn công. Vì sao súng cao su ra đời? Bởi vì giáo chiếm ưu thế trước kiếm về tầm tấn công. Chúng ta muốn luôn ở thế đối đầu, có thể tấn công mà không lo bị bắn trả”.
Theo lời ông Esper, siêu pháo của Mỹ có thể được đặt trên một đảo nảo đó ở biển Đông, bắn tới các mục tiêu của Trung Quốc cách đó gần 2.000 km, phá hủy các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh tạo dựng trái phép để biến chúng thành các tiền đồn quân sự.
Theo lời ông bộ trưởng Lục quân Mỹ, pháo có thể phá hủy các tàu chiến Trung Quốc và các mục tiêu quân sự khác trên các đảo ở biển Đông, phá hủy hệ thống phòng không, radar, các tên lửa chống hạm và thậm chí là căn cứ không quân.
Việc phá hủy các cơ sở nói trên trong chiến tranh cho phép không quân, hải quân và lực lượng mặt đất của Mỹ xâm nhập khu vực và giành lại từ tay Trung Quốc.
Vậy đâu sẽ là nơi siêu đại bác được triển khai? Bán đảo Philippines ở bờ phía đông của biển Đông, đặc biệt là trên các đảo Palawan và Luzon là dự đoán của một số nhà quan sát.

Một số phân tích và dẫn chứng lịch sử, pháp lý về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam


Tài liệu chính sử là những minh chứng pháp lý rõ ràng, đầy đủ khẳng định Việt Nam có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.

Những hình ảnh, tư liệu lịch sử và bằng chứng pháp lý chứng minh chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới. Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.
Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia.
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật... Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26/7/1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Mỹ) có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào.
Năm 1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng. Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kịch liệt phản đối. Năm 1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 “ngư dân” Trung Quốc.
          Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã kịch liệt phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc. Năm 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầy đủ các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa cai quản trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa cũng như hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các quần đảo này. Một sự thật hiển nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện nào của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14/3/1988, Trung Quốc bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ quyền chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle) chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa của Việt Nam được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982. Về mặt địa chất, các nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một thành phần của Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa chỉ cách đất liền Việt Nam từ 150 đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt Nam.
Một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên quan tới Biển Đông là phải tuân thủ pháp luật chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên hợp quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994. Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Mỹ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên hợp quốc.
Trong khi Đại hội đồng Liên hợp quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập Liên hợp quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên hợp quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Trong thời đại văn minh, sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ nước khác đã bị pháp luật quốc tế nghiêm cấm. Vũ lực cũng sẽ không phải là cách thức đúng đắn để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các quy định của UNCLOS, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cùng chung sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác là thể hiện sự hành xử của những quốc gia văn minh, tôn trọng sự thật lịch sử cũng như thượng tôn pháp luật quốc tế mà chính mình đã công nhận và ký kết.
Như vậy, nếu tìm hiểu về lịch sử và pháp lý chúng ta thấy rõ ràng rằng Việt Nam có chủ quyền đầy đủ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây chính là những cơ sở cho tính tính nghĩa trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nhân dân Việt Nam hiện nay.

Powered by Blogger.