Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Tưởng nhớ Đại Tá Trần Ngọc Thống

Thursday, February 13, 2020 // ,
Tưởng nhớ Đại Tá Trần Ngọc Thống


Đại Tá Trần Ngọc Thống năm 1975. (Hình cung cấp)
Đại Tá Trần Ngọc Thống, nguyên Giám Đốc Nha Trừ Bị Bộ Quốc Phòng VNCH cho đến ngày 30/4/1975.
Sáng ngày 29/4/1975, Đại Tá Thống và Đại Tá Nguyễn Đức Đệ vào Bộ Tổng Tham Mưu thăm Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng để biết thêm tin tức thời cuộc. Lúc xuống lầu ra về, Đại Tá gặp Tướng Nguyễn Cao Kỳ đang đón Tướng Ngô Quang Trưởng từ tầng lầu xuống nơi trực thăng đậu. Hai vị chào Đại Tá Thống rồi lên trực thăng cất cánh. Đại Tá Thống nhìn xem trực thăng có bay về hướng Quân Đoàn IV hay không? nhưng máy bay lại trực chỉ ra biển Đông. Đại Tá Thống thở dài, “Thế là Miền Nam bị bức tử rồi, vô vọng!”
Ông rời Bộ Tổng Tham Mưu về lại gia đình bận bịu còn mẹ già, vợ và các con nhỏ, không còn phương tiện để rời Việt Nam. Cuối cùng ông phải chịu cảnh rơi vào ngục tù tập trung của Cộng Sản với 13 năm qua 7 trại tù từ Nam ra Bắc và ngược lại.
Khi cụ ông trong tù, cụ bà bên ngoài lo cho các con vượt biển, ngoại trừ hai người con trai du học Hoa Kỳ từ trước. Đến năm 1991, hai cụ được sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Ngày đoàn tụ con cháu, thân nhân và bạn bè vô cùng hạnh phúc.

Hình chụp tại tư gia Kỹ Sư Lê Văn Quý tại Tokyo 1959. Từ trái: Đại Úy Bùi Văn Tài, Đại Úy Trần Ngọc Thống, phu nhân Kỹ Sư Lê Văn Quý (người Nhật), Thiếu Tá Phùng Ngọc Bang và Kỹ Sư Lê Văn Quý. (Hình cung cấp)
Năm cụ thọ 96 tuổi, gia đình tổ chức lễ thượng thọ cho cụ. Lúc ấy cụ khỏe mạnh và vô cùng minh mẫn. Trong lễ thọ, mọi người đều vui mừng chúc cụ thọ ngoài 100 tuổi. Hôm ấy tôi được vinh dự là khách mời tham dự trong lời chúc cũng mong cụ sống lâu hơn 100 tuổi.
Cứ mỗi ngày tôi và cụ đều liên lạc nhau qua điện thoại. Mở đầu câu chuyện tôi hỏi thăm sức khỏe cụ. Cụ cho biết vẫn khỏe, rồi cả hai mới thông tin nhau thời sự trong ngày và cho nhau biết chiến hữu những ai đã lần lượt ra đi.
Trong những ngày đầu năm Canh Tý, tôi gọi chúc năm mới cụ, nhất là sức khỏe song điện thoại không có người trả lời. Tôi hy vọng là cụ đang ở nhà con cháu, phần khác cũng lo lắng đến sức khỏe của cụ.
Đến chiều mồng hai Tết, qua điện thoại cụ gọi tôi. Tôi mừng khi nghe tiếng cụ song qua vài phút trao đổi cụ cho biết sức khỏe cụ yếu, phải vào bệnh viện UCI. Hai ngày sau xin về nhà song bác sĩ giữ cụ lại vì cụ vẫn còn yếu.
Sáng mồng ba Tết, Đại Tá Lê Bá Khiếu, ông Trần Minh Tiến và tôi đến thăm cụ. Tại giường bệnh cụ mừng bắt tay chúng tôi thật chặt, kể chuyện nhau nghe một lúc đến giờ bác sĩ thăm bệnh. Chúng tôi chào cụ ra về. Mỗi ngày tôi liên lạc cô Lan trưởng nữ của cụ. Cô cho biết cụ vẫn khỏe.
Đến trưa ngày 1/2/2020, qua điện thoại cô Lan cho tôi biết cụ đã mất vào lúc 10 giờ 33 phút sáng. Cụ thanh thản ra đi để lại sự thương yêu, quý mến của gia đình thân quyến, các chiến hữu, bằng hữu đã từng quen biết, quý mến cụ.
Tôi buồn quá! Thế là hết rồi! Mất đi một người anh, một người thầy. Không ngờ cái bắt tay siết chặt hôm thăm cụ là lần bắt tay vĩnh biệt cụ cuối cùng.
Tôi và cụ có nhiều kỷ niệm song với một bài báo ngắn không sao kể hết được.
Lúc sinh tiền cụ thường kể tôi nghe nhiều mẩu chuyện ở mọi lãnh vực có liên quan về cụ và thời cuộc theo dòng lịch sử.

Từ trái: Thiếu Tá Hồ Đắc Huân, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Đại Tá Trần Ngọc Thống. (Hình cung cấp)
Bài báo này tưởng nhớ, thương tiếc cụ, tôi xin ghi lại một phần những mẩu chuyện giữa cụ và tôi trong gần hai thập niên thân quen. Nội dung bài viết nhằm giúp bạn đọc trẻ, đặc biệt các con cháu cụ biết thêm về cụ, người trai trong thế hệ trước đã cống hiến đời này từ lúc trẻ đến tuổi già cho Tổ Quốc như thế nào?
Cụ Trần Ngọc Thống sinh năm 1923 (Quý Hợi) tại Hà Nam, Bắc Việt trong một gia đình nho giáo. Cụ là hậu duệ đời thứ 12 của Trạng Nguyên Trần Văn Bảo, thời nhà Mạc. Cụ là con trai trưởng trong gia đình có 7 anh em, 2 trai và 5 gái. Thân sinh cụ mất sớm, cụ thay cha nuôi các em ăn học. Cụ kết hôn với cụ bà Phạm Thị Đoan năm 1942. Hai ông bà có được 7 người con, 3 trai và 4 gái. Cụ bà rất đảm đang, giàu đức hy sinh. Hai cụ sống với nhau được 73 năm thì cụ bà qua đời năm 2015, hưởng thọ 91 tuổi.
Cụ Thống khởi đầu học chữ Nho, Quốc Ngữ, tiếng Pháp rồi tiếng Anh. Cụ đỗ Tiểu Học Việt-Pháp rồi Trung Học, Tú Tài 1 và 2. Về sau có 2 chứng chỉ Luật.
Cụ xuất thân từ nhà giáo. Đất nước hiểm nguy, cụ xếp bút nghiên theo lệnh động viên năm 1951, theo học Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định.
Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, về phục vụ tại Tiểu Đoàn 30 liên tiếp qua các chức vụ: Trung Đội Trưởng, Đại Đội Phó, Đại Đội Trưởng. Tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Trung.

Từ trái: Đại Tá Trần Ngọc Thống, Đại Sứ Bùi Diễm, Thiếu Tá Hồ Đắc Huân. (Hình cung cấp)
Thuyên chuyển về Tiểu Đoàn Danh Dự, phụ trách phòng thủ Thành Nội Huế.
1955 thăng Đại Úy, được chuyển về Saigon làm việc tại Bộ Quốc Phòng trong chức vụ Trưởng Phòng Lục Quân rồi Trưởng Phòng Không Quân.
1963 về Phòng Tổng Quản Trị làm Trưởng Khối Huy Chương, Trưởng Khối Điều Hành Quân Nhân.
1968 Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Quản Trị Trung Ương Saigon.
1970 thăng Đại Tá, giữ chức vụ Phó Phòng Tổng Quản Trị, sau đó là Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu.
1973 giữ chức Giám Đốc Nha Trừ Bị Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng cho đến 30/4/1975.
Trong suốt 25 năm quân ngũ, qua thành tích cụ được tưởng thưởng nhiều huy chương quân sự và dân sự, trong đó có huy chương cao quý là Bảo Quốc Huân Chương Đệ Tứ Đẳng. Cụ được tặng thưởng nhiều huy chương Đồng Minh như: Đại Hàn, Thái Lan và Hoa Kỳ.
Cụ được đề cử du học Hoa Kỳ 3 lần về nhân viên và Tổng Quản Trị (1958-1959). Hai lần du hành nghiên cứu ở Mỹ 1967 và 1971. Cụ còn đi Nhật Bản, Đài Loan và Campuchia nghiên cứu về ngành Tổng Quản Trị.
Cụ tốt nghiệp Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Đà Lạt.
Cụ xuất thân từ nhà giáo nên thích sưu tầm và viết lách. Nhờ thông thạo chữ Nho nên cụ sưu tầm tài liệu trong thư viện Quốc Gia Việt Nam và Viện Khảo Cổ để biên soạn cuốn gia phả họ Trần Ngọc bằng chữ Quốc Ngữ lần đầu vào năm 1968.

Từ trái: Đại Tá Trần Ngọc Thống, Luật Sư Lâm Lễ Trinh, Thiếu Tá Hồ Đắc Huân. (Hình cung cấp)
Sau khi ra khỏi tù, cụ biên soạn cuốn gia phả họ Trần Ngọc lần thứ hai với nhiều tài liệu cập nhật hóa cùng một số tài liệu của họ Trần Ngọc mang từ Bắc vào viết về cuộc đời và sự nghiệp của cụ tổ họ Trần Ngọc là Trạng Nguyên Trần Văn Bảo. Gia phả họ Trần Ngọc lần hai cũng bằng chữ Quốc Ngữ, xuất bản năm 1990 tại Saigon.
1972, trong thời gian cụ làm Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu đã thực hiện được cuốn kỷ yếu Phòng Tổng Quản Trị rất đầy đủ các chi tiết về nhiệm vụ, hoạt động, trách nhiệm, hành chánh, quản trị của Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu. Một tài liệu quý giá cho QLVNCH.
Từ năm 2004, cụ cộng tác với Trung Úy Lê Đình Thụy và người viết đã biên soạn được cuốn Lược Sử QLVNCH dày gần 1,000 trang, nặng 6 lbs. Sách này là tài liệu vô cùng quý giá của QLVNCH được nhiều đài truyền hình phỏng vấn, khen ngợi về cuốn sách này. Ngoài ra cũng được các Tướng lãnh, sử gia, học giả khắp thế giới khen ngợi. Sách được xuất bản năm 2011.
Trong suốt thời gian sinh sống tại Nam California, cụ Trần Ngọc Thống đã tham gia vào Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam với các chức vụ Chụ Tịch rồi Cố Vấn.
Thường xuyên tham dự trong các cuổi lễ tại tượng đài Việt-Mỹ, các lần họp mặt các quân binh chủng và đồng hương. Cụ cùng góp ý xây dựng Viện Bảo Tàng QLVNCH tại Nam California.
Kể chuyện du học Hoa Kỳ
Vào thời gian 1958-1959, các Đại Úy Trần Ngọc Thống, Trần Văn Vân và Bùi Văn Tài theo học Khóa Sĩ Quan Quản Trị còn Thiếu Tá Phùng Ngọc Bang theo học Khóa Sĩ Quan Hành Chánh. Tuy hai trường huấn luyện hai ngành riêng biệt song học chung tại Fort Harrison, Indiana do một Thiếu Tướng Mỹ chỉ huy cả hai trường.
Khi mãn khóa 3 Đại Úy và Thiếu Tá Bang về ghé qua Nhật Bản rồi đến Tòa Đại Sứ VNCH tại Tokyo, Nhật Bản thì gặp ông Lê Văn Quý du học Nhật Bản năm 1940. Ông Quý là Kỹ Sư Điện Tử bị kẹt Đệ Nhị Thế Chiến nên ở lại. Lúc bấy giờ ông Quý làm việc tại Tòa Đại Sứ VNCH. Ông Quý đã có hàng trăm phát minh nổi tiếng ở Nhật. Ông Quý mời Thiếu Tá Bang và 3 Đại Úy về nhà dùng cơm và mời đi thăm Hoàng Thành Nhật cùng các danh lam thắng cảnh tại Tokyo, Nhật Bản.
Đến nay Kỹ Sư Quý đã qua đời. Đại Úy Vân thăng Đại Tá, đã qua đời cách đây 9 năm, còn Đại Úy Tài thăng Thiếu Tá, qua đời năm 1976. Thiếu Tá Ban thăng Trung Tá và qua đời năm 2015, thọ 89 tuổi. Đại Úy Thống về sau là Đại Tá bị 13 năm tù từ Nam chí Bắc. Qua đời ngày 1/2/2020, hưởng đại thọ 98 tuổi.
Đôi lời vĩnh biệt
Sự qua đời của cụ Trần Ngọc Thống, tôi mất đi một người anh, một người thầy, một bạn vong-niên-giao. Quá đau buồn, không còn thấy một người thầy tính tình luôn vui vẻ, cẩn thận mọi việc làm phải được chính xác, luôn cởi mở, hòa mình với mọi người.
Từ đây tôi không còn thấy cụ Thống xuất hiện, không còn nghe giọng nói, tiếng cười trong bàn ăn hay qua điện thoại, không còn nghe tin tức hay những câu chuyện hàng ngày mà thầy trò tôi cùng liên lạc, trao đổi, thăm hỏi.
Là thành viên biên soạn sách Lược Sử QLVNCH. Tôi và gia đình ông Lê Đình Thụy: Thành tâm cầu nguyện hương linh cụ Trần Ngọc Thống, pháp danh Đôn Thuần được sớm siêu thăng tịnh độ và đời đời an nghỉ nơi miền Tây Phương Cực Lạc.
Sau cùng tôi xin thành kính chia sẻ sự mất mát lớn lao này cùng các người con của cụ và đại gia đình tang quyến.
Westminster một tuần buồn nhất.
12/2/2020
HỒ ĐẮC HUÂN

Những người Việt đầu tiên tại Úc

// ,

Những người Việt đầu tiên tại Úc
Ở thời điểm 30/4/1975 chỉ có trên 1,000 người Việt tại Úc, gồm những phụ nữ lập gia đình với Úc, sinh viên du học ở lại Úc, sinh viên đang du học, viên chức đang làm việc hay tu nghiệp, tu sĩ công giáo tu học và trẻ mồ côi sang Úc vào tháng 4/1975.
Trừ các trẻ mồ côi chưa hiểu biết, đa số đều lo lắng cho gia đình bị kẹt lại ở Việt Nam.
Các sinh viên đang theo học và viên chức miền Nam còn nhận được thư của Chính phủ Lao Động Gough Whitlam yêu cầu thu xếp hồi hương.
Nữ hoàng Anh và quyết định cho những người Việt đến Úc đầu tiên
Ngay sau 30/4/1975, Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị, nguyên thủ quốc gia của nhiều nước trong khối Commonwealth, chấp nhận người di tản Việt được tạm cư tại Hong Kong, Singapore, Malaysia và “vận động” Chính phủ Whitlam nhận một số người theo diện nhân đạo.
Ngày 20/6/1975, 201 người từ Hong Kong đến định cư tại Sydney và ngày 9/8/1975, 323 người từ Malaysia và Singapore đến Brisbane theo diện nhân đạo.
Chính phủ Whitlam còn nhận 224 người Việt theo diện đoàn tụ gia đình, tôn giáo và di dân, nâng tổng số người đến Úc trong năm 1975 lên đến 748 người.
Từ đảo Guam đến Melbourne có gia đình Giáo sư Nguyễn ngọc Truyền gồm chừng 40 người theo diện đoàn tụ gia đình.
Từ Guam theo diện di dân có Điêu khắc gia Lê Thành Nhơn cùng vợ và 4 con nhỏ vào tháng 9/1975.
Từ Nhật đến Melbourne, có gia đình Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Nhật, gồm 7 người vào giữa tháng 7/1975. Ông Đan phải ký giấy hứa khi đến Úc “không được làm chính trị”.
“Không làm chính trị là sao?”
Ngày 21/8/1975, Thủ tướng Whitlam bị đảng Tự Do chất vấn, phải thú nhận có 9 người Việt bị buộc phải ký giấy hứa khi đến Úc “không được làm chính trị”.
Ông Whitlam lập luận rằng 9 người này đều hoạt động chính trị hay tham dự vào hoạch định chính sách thời Việt Nam Cộng Hòa, nên họ có thể dùng lãnh thổ Úc làm căn cứ nhằm lật đổ chính phủ một nước đã được Úc công nhận.
Ông Whitlam bị đảng đối lập và truyền thông phản đối là trái với truyền thống tự do chính trị tại Úc, kỳ thị người miền Nam Việt Nam, đòi ông phải hủy bỏ giấy hứa, phải xin lỗi người tị nạn và xin lỗi công chúng Úc.
Theo hồi ký Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan, giới chức Úc cho biết ông giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới thời Việt Nam Cộng hòa, đều là những chức vụ mang tính cách chính trị, nên nếu ông muốn đi Úc phải ký giấy hứa.
Ông Đan nghĩ suốt đời ông chỉ làm công chức cho chính phủ không hề làm chính trị, nên chấp nhận ký.
Còn cựu chủ tịch Thượng Viện ông Trần văn Lắm luôn bị dằn vặt chỉ vì rất muốn đoàn tụ với gia đình ở Úc mà phải ký giấy này.
Được biết, Luật sư Lưu Tường Quang và ngay cả ông Đoàn Bá Cang, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Úc trước ngày mất nước, cũng bị buộc phải ký giấy hứa này.
Bỏ rơi nhân viên Việt Nam
Ngày 20/4/1975, Đại sứ Geoffrey John Price gởi điện tín mật cho Thủ tướng Whitlam thông báo Sài Gòn đang thất thủ và yêu cầu cho lệnh di tản nhân viên tòa đại sứ, công dân Úc và cấp sổ thông hành đặc biệt cho nhân viên Việt làm việc cho tòa đại sứ Úc.
Ngày 21/4/1975, Ngoại Trưởng Úc Dân biểu Don Willesee đề nghị ông Whitlam cấp thẻ thông hành cho 115 người Việt gồm nhân viên làm việc cho tòa đại sứ Úc và gia đình nhằm tránh cho họ bị cộng sản trả thù.
Nhưng trái với tinh thần nhân đạo của người Úc, ngày 25/4/1975, Thủ tướng Whitlam ra lệnh đóng cửa tòa Đại sứ, di tản khỏi miền Nam, không cấp thông hành và bỏ lại hầu hết những người Việt đã làm việc cho Úc.
Theo hồi ký của Bộ trưởng Lao Động và Di Dân, Clyde Cameron, Thủ Tướng Whitlam tin rằng người Việt tị nạn cộng sản sẽ trở thành những cử tri chống cộng ủng hộ đảng Tự Do, tương tự như di dân từ ba nước Bắc Âu, sau Thế chiến Thứ Hai.
Hội sinh viên Việt Nam hải ngoại
Theo Radio Australia từ năm 1963 các sinh viên du học Colombo đã thành lập Hội sinh viên Việt Nam hải ngoại tại Úc.
Năm 1974, Hội có tới 120 hội viên, nhưng sau biến cố 30/4/1975, những người học xong tản mác khắp nơi, không còn người đi học, Hội giảm dần hoạt động đến năm 1977 chính thức giải tán.
Nhiều sinh viên Colombo sau này đã trở thành lãnh đạo hay thành viên sáng lập Cộng đồng Người Việt Tự do.
Hội Đoàn ủng hộ cộng sản
Ngày 26/2/1973, Chính phủ Whitlam chính thức lập quan hệ ngoại giao với nhà cầm quyền Hà Nội, một số cựu sinh viên Colombo trở mặt ủng hộ cộng sản chống lại chính quyền miền Nam.
Theo Radio Australia, ngay sau ngày 30/4/1975, Nguyễn Phạm Điền, một cựu sinh viên Colombo sang Úc từ năm 1962 rồi trốn lại, đã đứng ra thành lập Hội Đoàn Kết người Việt ở Úc.
Số người theo Hội chỉ chừng 20 trong tổng số từ chừng 500 sinh viên và cựu sinh viên. Một số hội viên khi biết được thân nhân ở Việt Nam bị đi tù, biết sự thật vi phạm nhân quyền đang xảy ra cho hằng triệu người miền Nam nên đã bỏ Hội. Một vài người chuyển sang sinh hoạt với Cộng đồng người Việt Tự do.
Năm 1984, Hội Đoàn Kết đổi tên thành Hội Người Việt Nam tại Úc, ông Điền làm hội trưởng.
Những năm đầu thập niên 1990, tôi làm chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Canberra, ông Điền sống tại đây, ngoài ông ra tôi không thấy ai khác công khai nhận là hội viên Hội này. Năm 1996, Hội chính thức giải tán.
Cũng sau 30/4/1975, một số khoa bảng thiên tả đã thành lập Hội Úc Việt, hoạt động chủ yếu trong khuôn viên Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi (Australian National University) tại Canberra và có phát hành bản tin “Vietnam Today” bằng Anh ngữ và vài cuộc hội thảo “Vietnam Updated”.
Tôi biết một số hội viên Hội này, trong đó có Giáo sư David Marr và ông Trần Hạnh, sinh viên Colombo khóa 1972, cả 2 đều là chủ bút của “Vietnam Today”.
Mặc dù là chủ bút của “Vietnam Today”, ông Trần Hạnh biết rất ít thực tế đang xảy ra tại Việt Nam.
Được Radio Australia phỏng vấn ông Hạnh tự nhận là mãi đến đầu thập niên 1980, ông mới biết cha của ông một sĩ quan cấp tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị tù “cải tạo”, mẹ ông bị đuổi đi kinh tế mới và các em ông phải ly tán.
Năm 1992, ông Hạnh về Việt Nam khi cha ông vừa ra tù. Ông Hạnh cho tôi biết cha ông rất buồn vì ở Úc ông theo cộng sản và rất sợ vì ở Việt Nam ông Hạnh luôn bị công an cộng sản quấy nhiễu. Nhờ chuyến đi đó ông mới biết được phần nào thực tế đang xảy ra tại Việt Nam.
Ông Hạnh khi ấy đang học cao học truyền thông có làm một cuộn phim quay video về đời sống ở Việt Nam ông cho tôi biết “lén” mang về Úc và được phát trên đài truyền hình ABC.
Ông Hạnh sau sang Anh làm Trưởng ban Việt Ngữ đài BBC, rồi lại về Úc, làm Giám đốc sản xuất cho Radio Australia.
Cũng khoảng thời gian đó, sử gia Úc, Giáo sư David Marr có cho tôi biết ông vừa từ Việt Nam về, trước khi ông bước lên máy bay, tất cả những tài liệu và cả vở ghi chú của ông đều bị công an cộng sản tịch thu.
Cũng đầu thập niên 1990, khi Hà Nội bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ, nhiều hội viên Hội Úc Việt khi đó “vỡ mộng” biết được cộng sản Việt Nam phản bội niềm tin của họ, Hội quyết định giải tán.
Tị nạn chính trị
Ngày 11/11/1975, Toàn quyền John Kerr sa thải Thủ tướng Whitlam, và chọn lãnh tụ đối lập Malcolm Fraser làm thủ tướng xử lý thường vụ sửa soạn bầu cử.
Ngày 13/12/1975, Liên đảng Tự Do – Quốc Gia thắng cử, Thủ tướng Malcolm Fraser đảo ngược chính sách của Chính phủ Whitlam cho phép các sinh viên được định cư và đón nhận người Việt tị nạn chính trị.
Vào đầu năm 1976, Tiến sĩ Nguyễn triệu Đan nhận được thư của Bộ Trưởng Di trú và Sắc tộc sự vụ, Michael MacKellar, thông báo hủy bỏ giao ước “không được làm chính trị”.
Nhưng dù thất cử, ông Whitlam tiếp tục giữ vai trò thủ lãnh đối lập với đường lối cứng rắn quyết ngăn cản người Việt tị nạn cộng sản được định cư tại Úc.
Đến ngày 10/12/1977 khi Thủ tướng Fraser thắng cử nhiệm kỳ 2 chính sách nhận người Việt tị nạn mới phần nào thay đổi.
Mãi đến 20-21/7/1979, sau Hội nghị Geneva về người tị nạn Đông Dương, Chính phủ Fraser đồng ý Úc sẽ nhận thêm mỗi năm hằng chục ngàn người tị nạn.
Giữa năm 1982, Chính phủ Fraser đạt thỏa thuận với nhà cầm quyền Hà Nội để người Việt tị nạn được bảo lãnh gia đình còn kẹt lại ở Việt Nam.
Theo số thống kê vào tháng 6/1976, có 2,427 người Việt trên toàn nước Úc. Số người Việt tại Úc tăng đến 60,000 người vào cuối năm 1982 và 220,000 người vào năm 2016.
Nếu tính luôn thế hệ tiếp nối sinh ra tại Úc số người Việt tự do có thể đã lên đến trên 300,000 người.
Hai vị ân nhân
Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị và Thủ tướng Malcolm Fraser quả đã khai sinh cộng đồng người Việt tự do.
Trong tang lễ ông Fraser ngày 27/3/2015, tôi và hằng trăm người Việt khác đã “xuống đường” trước cửa nhà thờ Scots’ với ba biểu ngữ lớn biểu lộ tấm lòng tri ân của người Việt tự do dành cho ông.
Ông Nguyễn thế Phong, cựu chủ tịch Cộng đồng, mặc áo dài đen, đội khăn đống, tay ôm bức chân dung của ông Fraser, hai bên là hai lá cờ Úc Việt (cờ vàng ba sọc đỏ), thương tiếc sự ra đi của vị ân nhân đáng kính nhất của người Việt tự do.
Cuộc xuống đường được truyền thông chú ý và đưa tin: người Việt không quên ơn ông Fraser, người Việt không quên ơn nước Úc đã mở rộng bàn tay cưu mang đòan người trốn chạy cộng sản tìm tự do trên đất Úc.
Người Việt tự do
Đảng Tự Do trước đây đã sát cánh với miền Nam chống lại cộng sản, sau 30/4/1975 lại đề ra những chính sách đón nhận người Việt tị nạn cộng sản và gia đình còn kẹt lại ở Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hưng, ngày 10/2/1976, sau khi Thủ tướng Malcolm Fraser quyết định nhận người tị nạn chính trị, hai ông và một số sinh viên thành lập Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự Do dự tính giúp chính quyền tiểu bang Victoria tiếp đón đồng bào sẽ qua Úc định cư.
Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự Do chính là tiền thân của Cộng Đồng Người Việt Tự do tại Victoria.
Trải 44 năm, từ ngày thành lập 10/2/1976, các Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự do tại Victoria đều luôn giữ đường lối độc lập với các đảng chính trị tại Úc nhưng trong tận đáy lòng không quên ơn Thủ Tướng Malcolm Fraser, một đặc điểm đáng ghi nhận của Cộng Đồng tại Victoria nói riêng và tại Úc châu nói chung.
Đây là bài viết đầu tiên trong loạt bài 45 năm nhìn lại những thử thách từ bước ban đầu thành lập cho đến ngày nay (1975-2020), và duyệt lại nỗ lực trẻ trung hóa thành phần lãnh đạo hầu tiếp nối duy trì truyền thống của người Việt tự do.
Mong nhận những thông tin và ý kiến của bạn đọc để hoàn chỉnh loạt bài.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi

Powered by Blogger.