Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Tổ chức tham vấn pháp luật Á-Phi (AALCO): “Chủ nghĩa đa phương và trật tự quốc tế trên nền tảng luật pháp quốc tế”

Thursday, November 7, 2019 // ,

Từ ngày 21-25/10/2019, tại thành phố Dares Salaam, Tanzania đã diễn ra kỳ họp thường niên lần thứ 58 của Tổ chức tham vấn pháp luật Á-Phi (AALCO) với chủ đề “Chủ nghĩa đa phương và trật tự quốc tế trên nền tảng luật pháp quốc tế”. Kỳ họp là dịp để các nước khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực thi luật pháp quốc tế trong đời sống chính trị thế giới, bao gồm cả vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển hiện nay.


Về Tổ chức tham vấn pháp luật Á-Phi (AALCO)

AALCO được thành lập năm 1956 tại Bandung, Indonesia với tên gọi ban đầu là Hội đồng tham vấn pháp luật châu Á. Tổ chức này chính thức được đổi tên năm 2001, với sự tham gia của các quốc gia châu Phi. Hiện AALCO gồm 48 thành viên, là các quốc gia chủ chốt trong khu vực (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Ai Cập) và một số quan sát viên (như Đức, Australia, New Zealand). Sau thời gian làm quan sát viên, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của AALCO năm 2017. Năm 2018, Kỳ họp thường niên lần thứ 57 của AALCO diễn ra tại Tokyo, Nhật Bản.

Nội dung chính tại kỳ họp thường niên AALCO lần thứ 58 năm nay

Tại Kỳ họp, các quốc gia thành viên cùng khách mời là các chuyên gia, học giả luật quốc tế đã thảo luận các chủ đề đang được thế giới và các quốc gia Á-Phi quan tâm, bao gồm: Luật Biển (Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia - BBNJ; Tự do hàng hải tại các vùng biển quốc tế, eo biển quốc tế; Khai thác thủy sản trái phép, không khai báo và không theo quy định – IUU Fishing); giải quyết hòa bình các tranh chấp; Luật pháp quốc tế trong Không gian mạng; Luật Thương mại và Đầu tư quốc tế (cải tổ WTO và cải tổ cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia); Các chủ đề trong chương trình nghị sự của Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC)…

Các phiên họp diễn ra sôi nổi, phản ánh sâu sắc quan điểm của các quốc gia Á-Phi đối với các vấn đề pháp lý quốc tế và khu vực. Các quốc gia đều khẳng định tôn trọng và đề cao các nguyên tắc của luật pháp quốc tế được ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc, coi đây là nền tảng để xử lý các thách thức mới phát sinh và thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, trật tự thế giới dựa trên luật lệ.

Các quốc gia thành viên AALCO đã tiến hành kết nạp thành viên mới (Philippines) và quan sát viên mới. Bên cạnh các quốc gia thành viên, Kỳ họp còn thu hút sự tham gia của nhiều nước và tổ chức quốc tế trong và ngoài khu vực với tư cách quan sát viên và đối tác của AALCO. Điều này chứng tỏ sự quan tâm ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế đối với AALCO và các chủ đề thảo luận của tổ chức này.

Việt Nam nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật tại Kỳ họp

Phát biểu tại phiên họp toàn thể, Trưởng đoàn Việt Nam, ông Chu Tuấn Đức, Phó Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương với vai trò trung tâm của Liên hợp quốc, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế đã được các quốc gia ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc.

Đoàn Việt Nam đã tham gia phát biểu tại hầu hết các chủ đề, thể hiện tinh thần chủ động, trách nhiệm và xây dựng. Trong các phát biểu, đoàn Việt Nam đều khẳng định tầm quan trọng của luật pháp quốc tế, kêu gọi giải quyết các tranh chấp, trong đó có tranh chấp tại Biển Đông, bằng các biện pháp hòa bình, kiềm chế không tiến hành các hành động đơn phương làm phức tạp tình hình và gia tăng căng thẳng, đe dọa hòa bình và an ninh trong khu vực cũng như quốc tế. Các phát biểu của đoàn Việt Nam được nhiều quốc gia cũng như chuyên gia luật quốc tế chia sẻ và trao đổi trong thời gian diễn ra phiên họp.

Sự phát triển của chủ nghĩa đa phương suốt 75 năm qua đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng, góp phần định hình quan hệ quốc tế hiện đại với nền tảng các điều ước quốc tế quan trọng như Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, bốn Công ước Geneva về Luật Nhân đạo năm 1949, Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982…

Tuy nhiên, chủ nghĩa đa phương cũng như hệ thống luật pháp quốc tế đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi các quốc gia cần tôn trọng luật pháp quốc tế và tích cực hợp tác đa phương ở nhiều cấp độ. Việt Nam đã và đang tham gia đóng góp tích cực tại các diễn đàn đa phương nói chung và việc pháp điển hóa cũng như phát triển tiến bộ luật pháp quốc tế nói riêng, đặc biệt là trong thời gian tới trên cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và Chủ tịch ASEAN năm 2020.

Tổng Lãnh sự Mỹ tại Việt Nam: Tương lai của nước Mỹ gắn trực tiếp với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương


Tổng Lãnh sự Mỹ tại Việt Nam Marie C. Damour (29/10) cho biết tương lai của nước Mỹ gắn trực tiếp với hòa bình, thịnh vượng và an ninh của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Bà Marie C. Damour tái khẳng định tương lai của nước Mỹ gắn trực tiếp với hòa bình, thịnh vượng và an ninh của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong tầm nhìn của Mỹ, khu vực này được định hình bởi quan hệ đối tác giữa các quốc gia vững mạnh, độc lập tự chủ và thành công; nhấn mạnh Mỹ tìm kiếm đối tác chứ không phải bá quyền trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và Mỹ không tìm kiếm quốc gia vệ tinh, quốc gia phụ thuộc; cho rằng tuyên bố chủ quyền của các nước cần dựa trên luật pháp quốc tế và tất cả các nước cần được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không. Bà Marie C. Damour cho biết, Mỹ tìm kiếm những đất nước như Việt Nam, cùng chia sẻ tầm nhìn của Washington và cùng chia sẻ những lợi ích từ một khu vực ổn định - nơi tất cả các nước đều tuân thủ đúng luật chơi, không chịu sự cưỡng ép và bắt nạt, có thể đưa ra những quyết định của riêng họ. Đồng thời, bà Marie C. Damour cũng cho biết phía Mỹ kỳ vọng Trung Quốc sẽ dần trở thành một cường quốc khu vực có trách nhiệm và có những đối sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp, đóng góp vào hoà bình, ổn định chung.
Ngoài ra, Tổng Lãnh sự Mỹ tại Việt Nam cho biết Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng vô cùng lớn. Không một quốc gia nào đủ sức một mình đáp ứng nhu cầu này. Nguồn vốn duy nhất đủ sức cung ứng chính là khu vực tư nhân toàn cầu, trong đó bao gồm nhiều công ty tại Mỹ. Đó là cách duy nhất để các nước trong khu vực giải quyết được nhu cầu về đầu tư và cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, bằng cách tập trung vào dòng vốn từ khu vực tư nhân, bà cho rằng mọi quốc gia có thể bảo đảm được chủ quyền, độc lập và quyền tự do lựa chọn trong quá trình này. Những nước vay nợ quá nhiều từ chính phủ nước ngoài thường cuối cùng phải thỏa hiệp về độc lập và chủ quyền.
Về quan hệ Mỹ - Việt Nam, bà Marie C. Damour cho biết, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới trong những năm vừa qua và là một đối tác kinh tế quan trọng của Mỹ. Việt Nam cũng là một trong những thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất của Mỹ nhờ vào sự năng nổ và đóng góp tích cực của khu vực tư nhân từ phía hai quốc gia. Nhiều năm qua, nền kinh tế giữa hai nước đang ngày càng gia tăng tính bổ trợ lẫn nhau. Mỹ liên tục là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều tăng hơn 130 lần kể từ năm 1994 đến nay. Mỹ có nhu cầu nhập khẩu lớn các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng hoặc sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh như: dệt may, da giày, máy móc thiết bị điện tử... Ở chiều ngược lại, Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị hàng không, viễn thông và nông sản nguyên liệu là những mặt hàng mà Mỹ có nguồn cung dồi dào. Hiện các doanh nghiệp Mỹ luôn coi Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn. Vì thế, Mỹ mong muốn tiếp tục duy trì đối tác hiệu quả với Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cũng như các đối tác khác và cộng đồng doanh nghiệp để tạo điều kiện tối ưu nhất cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam. Tổng Lãnh sự Mỹ cũng kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì được môi trường đầu tư ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Mỹ nói riêng cũng như các doanh nghiệp nước ngoài nói chung. Ngoài ra, Mỹ cũng hoan nghênh Việt Nam đảm trách một vai trò lớn hơn cả trong khu vực và trên trường quốc tế.
Để thúc đẩy hợp tác quan hệ song phương hơn nữa, bà Marie C. Damour cũng kiến nghị Chính phủ Việt Nam cần: Nâng cấp các hệ thống trung chuyển và hậu cần, nhất là tuyến trung chuyển hàng hải; kiến tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thân thiện, cởi mở, giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần thiết.
Quan hệ hợp tác Việt - Mỹ được cải thiện trên nhiều lĩnh vực trong những năm gần đây. Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 12/7/1995), đến nay, quan hệ Việt Nam - Mỹ đã chuyển đổi thành công từ đối đầu sang bạn bè, và trở thành đối tác toàn diện từ chính trị-ngoại giao, kinh tế, giáo dục, khoa học-công nghệ, đến quốc phòng-an ninh; với động lực hợp tác ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn, các lĩnh vực hợp tác ngày càng rộng, sâu, đa dạng, thực chất, hiệu quả và lợi ích hài hòa có tầm quan trọng chiến lược.
Sau khi tuyên bố bình thường hóa quan hệ và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước đã khai trương Đại sứ quán tại Washington và Hà Nội (vào tháng 8/-1995). Sau đó, vào tháng 7/2013, trong chuyến thăm chính thức Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, hai bên xác lập khuôn khổ quan hệ Đối tác toàn diện. Đây là một dấu mốc quan trọng, khẳng định xu thế phát triển tất yếu của quan hệ Việt Nam - Mỹ, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của quan hệ hai nước trong tương lai. Tiếp đó, chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 7/2015) đánh một dấu mốc quan trọng mới, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa hai nước.
Trong Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Việt Nam - Mỹ được công bố sau cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Mỹ Barack Obama có đoạn: “Việc thực hiện tốt, đầy đủ và không ngừng làm sâu sắc, phong phú thêm quan hệ đối tác toàn diện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thể chế chính trị và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là cơ sở để xây dựng lòng tin, tiến tới đưa quan hệ phát triển lên một tầm cao mới”.
Tháng 5/2016, chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Barack Obama tiếp tục tạo ra một dấu mốc mới trong quan hệ hai nước, khi Tổng thống Mỹ tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Như vậy, vật cản cuối cùng trong quan hệ song phương đã được xóa bỏ, đánh dấu sự bình thường hóa hoàn toàn quan hệ, đồng thời gửi đi một thông điệp nhiều ý nghĩa về việc tăng cường lòng tin chiến lược và sự thắt chặt quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trong tương lai. Nói chung, chuyến thăm được đánh giá đã “thể hiện một bước tiến dài trong tư duy của các nhà lãnh đạo Mỹ với Việt Nam”.
Đến nhiệm kỳ của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, ngay từ cuối tháng 5/2017, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã có chuyến thăm chính thức Mỹ, trở thành nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên và thứ ba ở châu Á có cuộc hội đàm với Tổng thống Donald Trump tại Nhà Trắng, “để đề ra lộ trình cho quan hệ Việt Nam - Mỹ, dựa trên những động lực tích cực của quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước”. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, quan hệ Việt Nam - Mỹ trên lĩnh vực chính trị-ngoại giao nhìn chung tiếp tục diễn tiến thuận lợi. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2017 của Tổng thống Donald Trump, hai nước tái khẳng định cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ trên cơ sở những Tuyên bố chung trước đây giữa hai nước; tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau. Có thể thấy rõ, các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo hai nước thời gian qua đã thực sự làm sâu sắc thêm quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Mỹ, thúc đẩy đà phát triển quan hệ trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thể chế chính trị của nhau. Trên bình diện đa phương, Việt Nam và Mỹ tăng cường hợp tác, phối hợp tốt tại các diễn đàn quốc tế và khu vực; phối hợp về chương trình nghị sự toàn cầu, củng cố đoàn kết và đề cao vai trò của ASEAN, thúc đẩy quan hệ ASEAN - Mỹ.
Cùng với quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác kinh tế-thương mại Việt Nam – Mỹ được coi là lĩnh vực hợp tác thành công nhất, đã và đang trở thành trọng tâm, nền tảng, động lực phát triển cho quan hệ chung giữa hai nước. Hiện Mỹ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong 24 năm qua, kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 100 lần, từ 451 triệu USD (năm 1995) lên 45,1 tỷ USD (năm 2015), 47,15 tỷ USD (năm 2016), 50,8 tỷ USD (năm 2017) và đạt kỷ lục 60,3 tỷ USD (năm 2018). Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) đưa ra dự báo kim ngạch thương mại hai nước có thể đạt 80 tỷ USD vào năm 2020. Về đầu tư, Hoa Kỳ hiện đứng thứ 11 trong số 130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 908 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 9 tỷ USD.
Hợp tác quốc phòng-an ninh giữa Việt Nam và Mỹ được xác lập ngay từ khi bình thường hóa năm 1995. Trong 24 năm qua, hợp tác quốc phòng-an ninh giữa hai nước có những thay đổi ấn tượng. Nếu như lúc ban đầu, hai nước mới chỉ dừng ở các cuộc tiếp xúc song phương tập trung vào giải quyết vấn đề tìm kiếm tù binh chiến tranh và người Mỹ mất tích (POW/MIA) trong chiến tranh tại Việt Nam, thì sau đó bắt đầu diễn ra các chuyến viếng thăm lẫn nhau của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước và đi cùng với đó là những tiến triển tích cực, thực chất trong việc xử lý hậu quả chiến tranh và những hợp tác trên các phương diện khác. Tháng 6/2015, Bộ trưởng Quốc phòng hai nước đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng Việt Nam - Mỹ. Đặc biệt, ngày 23/5/2016, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, thực hiện một bước tiến có ý nghĩa, làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Mỹ, góp phần quan trọng vào việc củng cố lòng tin giữa hai bên để tăng cường hợp tác đối phó hữu hiệu với các nguy cơ về an ninh trong khu vực. Hiện hai bên tiếp tục trao đổi đoàn các cấp, duy trì các cơ chế đối thoại song phương và tiếp xúc tại các diễn đàn khu vực. Hai bên đã thông qua Kế hoạch hành động 3 năm về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2018-2021.
Hai nước đã ký Hiệp định hợp tác về khoa học-công nghệ vào năm 2000 và thành lập Ủy ban hỗn hợp hợp tác khoa học-công nghệ. Hiệp định hợp tác sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định 123) chính thức được ký kết ngày 6/5/2014 đã mở ra cơ hội lớn cho hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực hạt nhân dân sự đầy tiềm năng.
Mỹ và Việt Nam bước đầu hợp tác về khoảng không vũ trụ: Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký Tuyên bố ý định chung về trao đổi hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu không gian (tháng 12/2011); Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) ký Tuyên bố hợp tác về khoa học công nghệ (tháng 3/2015), Dàn xếp Hành chính trong khuôn khổ Hiệp định hợp tác sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (tháng 5/2016). Tháng 3/2018, hai bên lần đầu tiên tổ chức Đối thoại về An ninh năng lượng tại Hà Nội.
Ngoài ra, hợp tác về giáo dục-đào tạo là nhân tố quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Hiện có trên 30.000 sinh viên, thực tập sinh Việt Nam đang theo học tại Mỹ, đứng đầu trong số các nước Đông Nam Á, đứng thứ 6 trong số các nước có nhiều du học sinh tại Mỹ. Hai bên tích cực triển khai dự án Đại học Fulbright tại Việt Nam; trao đổi về Hiệp định thực thi Chương trình Hòa Bình, cho phép các tình nguyện viên Mỹ vào dạy tiếng Anh tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Philippines đóng dấu vào hộ chiếu TQ có ‘đường lưỡi bò’


Cục Nhập cảnh Philippines hôm thứ Tư (6/11) cho biết, họ nối lại việc đóng dấu lên hộ chiếu Trung Quốc, có in hình chứa “đường lưỡi bò” phi pháp.
 
Tờ Nikkei cho biết, vào năm 2012, dưới thời Tổng thống Benigno Aquino III, Manila cấm đóng dấu lên hộ chiếu Trung Quốc để phản đối yêu sách của chính quyền Bắc Kinh, thay vào đó, Cục nhập cảnh Philippines cấp dấu lên một tờ giấy rời. Động thái được đưa ra sau khi các tàu Trung Quốc và tàu Philippines đối đầu tại bãi cạn Scarborough vào giữa năm 2012. Manila vừa gỡ bỏ lệnh cấm này.
“Chúng tôi ủng hộ việc cập nhật chính sách này của Bộ Ngoại giao. Trước đây, chúng tôi cũng từng bày tỏ mối lo ngại về an ninh đối với cách làm cũ vì mọi người có thể dễ đánh rơi các tờ giấy rời”, Uỷ viên Cục Di trú Philippines, ông Jaime Morente nói.
Một trang của cuốn hộ chiếu Trung Quốc có hình ảnh “đường lưỡi bò” trên Biển Đông (ảnh: AP).
Quan điểm về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông dưới thời Tổng thống Philippines Duterte hoàn toàn trái ngược với người tiền nhiệm. Ông từng nói rằng Phán quyết Biển Đông chỉ là một “mảnh giấy”.
Bắc Kinh tuyên bố hầu hết chủ quyền trên Biển Đông dựa trên yêu sách “đường chín đoạn”. Tuy nhiên, phán quyết Biển Đông được tòa án quốc tế đưa ra vào tháng 7/2016, theo sau đơn kiện suốt từ năm 2013 của Philippines, đã bác bỏ cơ sở pháp lý cho “đường chín đoạn” của Trung Quốc trong vùng biển chiến lược giàu tài nguyên mà Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan đều có tuyên bố chủ quyền.

Đọc báo Pháp – 07/11/2019

Đọc báo Pháp – 07/11/2019

30 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ,

Đức đã hoàn toàn thống nhất?

Trong những ngày này, nước Đức kỷ niệm dịp 30 năm bức tường Berlin sụp đổ. Nhiều người quan tâm đặt câu hỏi « Đông Đức có gì mới ? ». Báo Les Echos nhận định Đông Đức không có gì mới ! 30 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chỉ có 38% người dân Đức cho rằng công cuộc thống nhất đất nước đã thành công.
Từ năm 1989 đến năm 2015, 2 triệu người phía đông vẫn tiếp tục di cư sang phía tây. Khoảng cách thu nhập giữa Đông và Tây Đức vẫn cao. Trong khi lương tháng trung bình trước khi trừ các khoản đóng góp xã hội ở Tây Đức đã tăng gấp đôi, đạt 2.790 euro vào năm 2018, thì mức lương ở Đông Đức chỉ tăng 48%. Vào năm 2017, mức lương trung bình ở Đông Đức mới bằng mức lương ở Tây Đức hồi năm 2005.
Trụ sở chính của đa phần các doanh nghiệp lớn vẫn đặt tại Tây Đức. Không một đơn vị nào trong số 30 doanh nghiệp có vốn lớn nhất Đức đặt tại Đông Đức. Ở các vùng nông thôn, mặc dù có thêm 3.000 doanh nghiệp cỡ vừa được thành lập ở phía đông, nhưng các tập đoàn lớn thì vẫn tập trung tại miền tây. Quy mô nhỏ và vừa cũng khiến các doanh nghiệp ở Đông Đức khó trang bị công nghệ mới và ít có cơ hội mở rộng thị trường.
Mặc dù đã giảm mạnh từ 18,7% vào năm 2005 xuống còn 6,4% vào năm 2018, nhưng tỉ lệ thất nghiệp ở Đông Đức cũ vẫn cao hơn Tây Đức (4,3%). Do ít chịu sự tác động quốc tế, nên các doanh nghiệp Đông Đức lại đạt mức tăng trưởng 1,6%, cao hơn một chút so với các công ty Tây Đức (1,4%).

Sử dụng hiệu quả năng lượng trên thế giới

tiến triển quá chậm

Trong lĩnh vực năng lượng, đáng chú ý là bài viết trên báo le Monde « Sử dụng hiệu quả năng lượng tiến triển quá chậm ». Theo báo cáo ngày 04/11/2019 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, các ngành công nghiệp vẫn tiêu tốn rất nhiều nhiên liệu, người tiêu dùng lại có những thói quen mới vô cùng tốn kém về năng lượng. Trong khi đó, mức đầu tư của thế giới để cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, cho dù tăng 1,6% do với năm 2017, nhưng vẫn là quá ít, không đủ để giảm hiệu ứng nhà kính.
Cường độ sử dụng năng lượng, (năng lượng để tạo ra một đơn vị tổng sản phẩm quốc nội), chỉ được cải thiện 1,2%, mức thấp nhất kể từ đầu thập niên. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tỉ lệ trên là quá thấp : mức cải thiện cường độ sử dụng năng lượng trên toàn thế giới phải đạt 3% thì mới đủ để đạt các mục tiêu đã đề ra về khí hậu, năng lượng và chất lượng không khí.
Lý do chủ yếu là nhu cầu năng lượng của các ngành công nghiệp ở Trung Quốc và Mỹ tăng mạnh. Trong cuộc sống hàng ngày, phương thức tiêu dùng của con người cũng làm giảm hiệu quả sử dụng năng lượng, chẳng hạn về giao thông, mặc dù xe hơi ngày càng được cải thiện để tiêu tốn bớt năng lượng, song người tiêu dùng lại muốn mua xe hơi to rộng hơn, và số người đi trên xe lại giảm. Nhà ở cũng vậy, người dân chuộng những ngôi nhà, căn hộ lớn, với rất nhiều thiết bị điện. Các điều kiện thời tiết không thuận lợi cũng khiến mọi người dùng nhiều máy điều hòa nhiệt độ hơn. Và kết quả là lượng năng lượng thế giới sử dụng trong năm 2018 đã tăng 2,3%, mức cao nhất kể từ năm 2010.

Nghịch lý Đông Âu : Các nước tuyển lao động châu Á

vì dân di cư ồ ạt sang Tây Âu

Chuyển sang lĩnh vực xã hội, tỉ lệ sinh nở thấp và nạn di cư ồ ạt sang Tây Âu đã khiến nhiều nước Đông Âu thiếu nhân công nghiêm trọng. Báo Le Figaro gọi đó là một « nghịch lý ».
4/5 doanh nghiệp Rumani gặp khó khăn khi tuyển dụng nhân công. Các doanh nghiệp Rumani đã tuyển một triệu lao động châu Á, từ lái xe, công nhân xây dựng, cho đến kỹ sư, bác sĩ. Hungary cũng thiếu hàng chục ngàn lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Mặc dù các nước đều muốn tuyển lao động từ những nước láng giềng để thuận lợi về mặt ngôn ngữ, chẳng hạn Ba Lan rất chuộng lao động Ukraina, Rumani thì muốn tuyển người Moldavia, nhưng « cung vẫn không đủ cầu ». Năm nay, Hungary cấp khoảng 75.000 giấy phép lao động cho người ngoài châu Âu, và ngày càng nhiều người đến từ Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và Mông Cổ.
Ngoại trừ nhân công Ukraina, giấy phép lao động được các nước Liên Hiệp Châu Âu nói chung cấp nhiều nhất cho người Ấn Độ. Năm ngoái, có hơn 70.000 người Ấn Độ tới làm việc tại Anh, Đức, Ý và Đông Âu.
Còn theo Le Figaro, Việt Nam xuất khẩu nhiều lao động sang CH Séc, Rumani và các nước lân cận. Ông Daniel Bauta, người đứng đầu một quận tại Bucarest, Rumani, cho biết có hơn 500 lao động Việt Nam trên một công trường xây dựng trong địa bàn quận. Họ nhận lương khoảng 900 euro/tháng sau khi trừ các khoản đóng góp xã hội, trong khi cũng với công việc đó, người bản địa chỉ được trả 532 euro. Chính khoảng cách thu nhập này đã khiến người bản địa bất mãn.
Một nhà hoạt động nghiệp đoàn của Hungary nói với báo Le Figaro là nếu không có lao động nước ngoài này, nhiều doanh nghiệp Hungary sẽ phải đóng cửa, nhưng nếu người lao động Hung được trả lương cao hơn, họ sẽ không phải rời bỏ đất nước.

Chilê : Khủng hoảng xã hội và vi phạm nhân quyền

Nhìn sang Nam Mỹ, cuộc khủng hoảng ở Chilê vẫn thu hút sự chú ý của báo Libération. Kể từ khi phong trào phản kháng, chống bất bình đẳng xã hội bùng nổ, có ít nhất 23 người thiệt mạng, trong đó 5 người chết vì bạo lực của cảnh sát và binh lính. Đây là con số do Viện Công Tố Chilê công bố.
Còn theo Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chilê, một tổ chức công độc lập, có hơn 145 người đệ đơn lên tòa án về việc bị lực lượng an ninh tra tấn, đối xử vô nhân tính và làm mất phẩm giá con người. Đây là con số cao kỷ lục kể từ khi tổ chức này được thành lập cách nay 9 năm. Trong khi đó, giám đốc tổ chức Chữ Thập Đỏ chi nhánh Chilê cho biết có hơn 2.000 người bị thương, trong đó có nhiều trẻ vị thành niên.
Bà Nancy Yanez, giám đốc trung tâm nhân quyền của đại học Chilê, tại thủ đô Santiago, nhận định các vụ vi phạm nhân quyền ồ ạt cho thấy mức độ nghiêm trọng chưa từng có kể từ khi đất nước Nam Mỹ này chuyển sang chế độ dân chủ hồi năm 1990, sau khi nhà độc tài Pinochet bị lật đổ.
Việc tổng thống Sebatian Pinera ban bố tình trạng khẩn cấp tại thủ đô Santiago, rồi ở nhiều thành phố lớn khác và trao quyền cho quân đội đối phó với phong trào phản kháng xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho các vụ vi phạm nhân quyền, nhất là sau khi ông tuyên bố đất nước đang « trong tình trạng chiến tranh chống kẻ thù nội bang ».
Một bệnh viện Nhà nước ngày nào cũng tiếp nhận các bệnh nhân bị cảnh sát bắn đạn chì hoặc đạn cao su vào mắt. Ít nhất 130 người bị thương nặng ở mắt, khoảng 30 người mất hẳn thị lực một bên mắt. Báo cáo trước Thượng viện, chủ tịch một hiệp hội nhãn khoa cho biết đây là con số cao kỷ lục trên thế giới tính trong một thời gian ngắn như vậy. Và điều này là đặc biệt nghiêm trọng và chứng tỏ lực lượng an ninh nhắm bắn vào mặt người biểu tình.
Các quan sát viên của Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chilê cũng ghi nhận là trên đường phố, trong nhiều trường hợp, kể cả khi người biểu tình không tấn công cảnh sát, thì lực lượng này cũng không tuân thủ quy định và nhắm bắn đạn cao su hoặc đạn chì vào phần thân trên người biểu tình.
Một trong những người trong ban lãnh đạo của Viện Nhân Quyền Quốc Gia Chilê nhận định mặc dù đa phần thành viên lực lượng an ninh gia nhập hàng ngũ sau khi đất nước đã quay lại chế độ dân chủ, nhưng họ lại có nhiều hành động lạm quyền, biện pháp trấn át như ở thời độc tài quân sự Pinochet.
Tình hình nghiêm trọng đến mức Liên Hiệp Quốc đã cử một phái đoàn đến Chilê để điều tra về các cáo cuộc vi phạm nhân quyền. Các nhà điều tra cũng tìm hiểu về các biện pháp mà chính phủ cho áp dụng để đối phó với các cuộc biểu tình và các yêu sách xã hội của người dân.

Ấn Độ mất 9 triệu việc làm trong 6 năm

Trên lĩnh vực kinh tế, nhìn sang châu Á, trong bài viết « Trong 6 năm, Ấn Độ mất 9 triệu việc làm », báo Le Monde cho biết tỉ lệ thất nghiệp tại Ấn Độ đã tăng từ 2,2% vào năm 2012 lên thành 6,1% vào năm 2018. Đây là tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng có tại đất nước này kể từ năm 1970. Đáng lo ngại hơn nữa là hơn 50% dân số Ấn Độ dưới 25 tuổi. Mỗi tháng, trung bình có 1 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập thị trường lao động.
Theo các nhà nghiên cứu của hai trường đại học Jawaharlal Nehru và Azim Premji, nguyên nhân chính khiến nạn thất nghiệp bùng nổ là việc chính phủ bất ngờ thu hồi lại 86% tiền đang lưu thông để đổi tiền mới hồi tháng 11/2016. Dù mục tiêu là chống tham nhũng, nhưng biện pháp này đã làm tê liệt nền kinh tế của đất nước : lĩnh vực phi chính thức, nông nghiệp và cả công nghiệp đều vận hành thông qua tiền mặt. Ngoài ra, công nghiệp hóa và hạ tầng cơ sở yếu kém, bộ máy quản lý hành chính nặng nề, trung ương tập quyền, khiến Ấn Độ không thu hút được các nhà đầu tư quốc tế.

New Delhi bị « cầm tù » trong bầu không khí ô nhiễm

Vẫn liên quan đến Ấn độ, nhưng về môi trường, khí hậu, báo La Croix hướng tới thủ đô New Delhi, nơi đang hứng bụi mịn ở mức 810 microgram/m3 không khí, cao gấp 32 lần khuyến cáo của tổ chức Y Tế Thế Giới (25 microgram/m3). Không khí tại New Delhi là thuốc độc. Sống tại New Delhi là tự sát.
Tuy nhiên, tại Ấn Độ, không chỉ có New Delhi bị ô nhiễm không khí. Theo một báo cáo của Greenpeace và tổ chức đo lường chất lượng không khí Air Visual, trong số 30 thành phố ô nhiễm nhất thế giới có 22 thành phố của Ấn Độ. Ô nhiễm không khí khiến 1,2 triệu người chết sớm tại Ấn Độ hồi năm 2017.

Tin đọc nhanh

(RFI) – Hội thảo về Việt Nam sau 30 năm Đổi Mới.
Từ ngày 07 đến 08/11/2019, Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (Irasec), tại Bangkok, kết hợp với trường Đại Học Mở thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa Học Xã Hội vùng Nam Bộ, tổ chức hội thảo quốc tế « Đánh giá lại chủ nghĩa tư bản và xã hội châu Á trong thế kỷ 21: Tổng quan so sánh các thành tựu của Việt Nam sau 30 năm Đổi Mới và những thách thức phía trước ». Viện Irasec tổ chức hội thảo ở thành phố Hồ Chí Minh nhằm tiếp cận chủ nghĩa tư bản từ góc nhìn của châu Á. Hội thảo quy tụ đông đảo nhà nghiên cứu quốc tế từ Thái Lan, Singapore, Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan hay Ba Lan, Pháp và Canada nhằm trao đổi và so sánh đường đi của châu Á, cũng như những di sản kế thừa từ các hệ thống kinh tế chính trị trước kia với những thách thức ở phía trước.
(Reuters) – Tổng thống Mỹ Donald Trump và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể gặp nhau vào tháng 12/2019 
để ký một thỏa thuận thương mại tạm thời. Theo phát biểu ngày 06/11/2019 của một quan chức của chính quyền Mỹ, thỏa thuận « Giai đoạn 1 » này cũng có thể không được đúc kết, nhưng khả năng thành công nhiều hơn là thất bại. Vài chục địa điểm gặp gỡ được nêu lên, cũng có thể là tại thượng đỉnh NATO, dự kiến diễn ra ở Luân Đôn ngày 03 và 04/12.
(RFI) – Pháp dỡ hai khu lều tạm ở cửa ô La Chapelle, quận 18 Paris. 
Ngay sau khi chính phủ thông qua hạn ngạch về người nhập cư, khu lán trại tạm, được dựng ngay gần đường vành đai ở Porte de la Chapelle, đã bị lực lượng cảnh sát dỡ bỏ sáng sớm 07/11/2019. Có khoảng 1.600 người nhập cư sinh sống tại đây và được xe buýt chở đến các nhà thi đấu được dùng làm nơi ở tạm. Người nhập cư hợp pháp sẽ được phân bổ chỗ ở tạm thời. Còn người nhập cư bất hợp pháp sẽ bị dẫn độ ra biên giới.
(AFP) – Nga lo ngại mối họa 2.000 người thân thánh chiến.
Truyền thông Nga trích dẫn phát biểu ngày 07/11/2019 của giám đốc cơ quan tình báo Nga (FSB), Alexandre Bortnikov nhấn mạnh những hiểm họa tiềm tàng đến từ 2.000 phụ nữ và con cái quân thánh chiến Nga trở về từ Syria. Theo ông, những người này có nguy cơ trở thành những mục tiêu tuyển dụng trong tương lai của Daech để trở thành “những kẻ tấn công tự sát, chuyên gia tuyên truyền, các nhà tuyển mộ hay thành viên các mạng lưới khủng bố bất hợp pháp”.
(AFP) – Ủy Ban Châu Âu hạ dự báo tăng trưởng.
Thông báo của Ủy Ban ngày 07/11/2019, cho rằng tăng trưởng tại 19 nước có sử dụng đồng tiền chung euro trong năm 2019 chỉ ở mức 1,1% (1,2%) và 1,2% cho năm 2020 rồi 2021 (1,4%). Tăng trưởng cho toàn khu vực Liên Hiệp 27 nước là 1,4% cho các năm 2019, 2020 và 2021. Riêng cho năm 2020 bị giảm mất 0,2 điểm.
(AFP) – Cuba đề xuất một nghị quyết chống lệnh cấm vận của Mỹ.
Tại Liên Hiệp Quốc, ngày 06/11/2019, ngoại trưởng Cuba Bruno Rodriguez đã trình một dự thảo nghị quyết nhằm gỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ. Nghị quyết được tuyệt đại đa số các nước thành viên Liên Hiệp Quốc thông qua nhưng lại không có mấy tác dụng.
(AFP) – Thổ Nhĩ Kỳ chỉ trích Mỹ không giữ lời.
Ông Recep Tayyip Erdogan ngày 07/11/2019, chỉ trích Hoa Kỳ đã không tôn trọng những cam kết cho rút hết các lực lượng người Kurdistan ra khỏi vùng đông bắc Syria. Phát biểu này được đưa ra trong bối cảnh nguyên thủ hai nước dự kiến gặp nhau tại Washington ngày 13/11/2019.

Powered by Blogger.