Tin Biển Đông – 19/07/2020
Trung Quốc chuẩn bị đưa thêm tàu khảo sát hải dương cỡ lớn ra Biển Đông
Trung Quốc hôm 18/7 đã xuất xưởng thêm một tàu khảo sát hải dương có tên Shiyan 6 ở tỉnh Quảng Đông nhằm thực hiện công tác khảo sát hải dương và bảo vệ chủ quyền và lợi ích của nước này tại Biển Đông. Tờ Hoàn Cầu Thời Báo (Global Times), tiếng nói của Đảng Cộng sản Trung Quốc, loan tin này hôm 19/7.
Theo Global Times, tàu được đóng có vốn đầu tư là 74 triệu đô la, chiều dài là 90,6 mét, rộng 17 mét, cao là 8 mét và có thể mang theo 60 thuyền viên.
Tàu có khả năng tự hoạt động một mình ngoài biển tối đa lên đến 60 ngày.
Dự kiến, Shiyan – 6 sẽ đi vào hoạt động vào năm 2021.
Theo Global Times, Trung Quốc hiện có khoảng hơn 60 tàu khảo sát hải dương đang hoạt động. Trong số này 37 tàu đã tham gia vào đội tàu nghiên cứu hải dương quốc gia.
Trung Quốc hiện là quốc gia có nhiều tàu khảo sát hải dương nhất thế giới.
Những năm qua, Bắc Kinh đã gia tăng các hoạt động đòi hỏi chủ quyền của mình ở Biển Đông bằng cách điều các tàu khảo sát hải dương vào vùng nước của các quốc gia láng giềng bao gồm Việt Nam, Philippines và Malaysia bất chấp những phản đối của các nước trong khu vực và Hoa Kỳ.
Trung Quốc khẳng định hoạt động của các tàu hải dương và hải cảnh là trong vùng nước thuộc chủ quyền lịch sử của Trung Quốc trong dường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ trên biển. Toà Trọng tài Quốc tế trong một phán quyết vào năm 2016 đã bác bỏ tính hợp lý của đường này nhưng Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của toà.
Trong các tháng qua, Trung Quốc cũng điều tàu Hải Dương 4 vào vùng biển của Malaysia và Việt Nam. Gần đây nhất là vào đầu tháng 7, khi tàu Hải Dương 4 vào sát lô dầu khi 06.1 của Việt Nam ở Bãi Tư Chính.
Áp lực kép
lên tham vọng độc chiếm Biển Đông của TQ
Giới phân tích cho rằng tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông phải chịu áp lực kép cả về các biện pháp pháp lý cũng như những hành động mạnh mẽ hơn trên thực địa, nhất là sau khi Mỹ tuyên bố bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biển này.
Mỹ được cho sẽ gia tăng mạnh hơn các hoạt động tuần tra ở Biển Đông để gây áp lực với Trung Quốc sau tuyên bố bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở vùng biển này
UNCLOS là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp
Một trong những điểm then chốt quan trọng trong Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo về lập trường chính thức của Washington trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là lấy Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) làm cơ sở pháp lý để bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền phi lý và phi pháp của Trung Quốc tại vùng biển chiến lược này. Nói cách khác, Mỹ chính thức đồng quan điểm với các bên có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông là lấy UNCLOS 1982 – văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất, được xem là “bản hiến pháp về biển và đại dương” - để soi chiếu, nhìn nhận và giải quyết các vấn để về chủ quyền.
Trong tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo, Mỹ đã lần đầu tiên nêu rõ những vùng biển ở Biển Đông mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền là không có căn cứ pháp lý, là bất hợp pháp. Theo đó, Mỹ bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc, bao gồm yêu sách hàng hải như vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) đối với các vùng biển thuộc bãi Scarborough và quần đảo Trường Sa. Trong đó, khẳng định Trung Quốc không có yêu sách lãnh thổ hay hàng hải hợp pháp nào đối với đá Vành Khăn hay bãi Cỏ Mây, mà theo Mỹ là cả 2 nằm hoàn toàn trong quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippines. Trung Quốc cũng không có yêu sách lãnh thổ hay hàng hải nào được tạo ra từ những cấu trúc này.
Điều rất đáng chú ý thể hiện điểm mới trong lập trường của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông là Mỹ đã viện dẫn UNCLOS 1982 là căn cứ pháp lý để bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc. Theo đó, Ngoại trưởng Mike Pompeo nêu rõ, do Trung Quốc không thể đưa ra một yêu sách hàng hải hợp pháp, rõ ràng tại Biển Đông. Và Mỹ bác bỏ bất cứ yêu sách nào của Trung Quốc đối với các vùng biển nằm ngoài lãnh hải 12 hải lý tính từ các đảo mà Trung Quốc đưa ra yêu sách tại quần đảo Trường Sa. Mỹ cũng chiểu theo quy định của UNCLOS 1982 bác bỏ bất kỳ yêu sách hàng hải nào của Trung Quốc đối với các vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), cụm bãi Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển thuộc EEZ của Brunei và Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia). Ngoại trưởng Mỹ tuyên bố, bất cứ hành động nào của Trung Quốc nhằm quấy rối hoạt động đánh bắt cá hay phát triển dầu khí của các quốc gia khác trong những vùng biển này, hay đơn phương thực hiện các hành động đó đều là bất hợp pháp.
Cũng căn cứ theo UNCLOS 1982, trong tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ đã khẳng định, Trung Quốc không có yêu sách lãnh thổ hay hàng hải hợp pháp nào đối với bãi ngầm James – một cấu trúc chìm hoàn toàn cách Malaysia chỉ 50 hải lý và cách bờ biển Trung Quốc khoảng 1.000 hải lý. Bởi theo Ngoại trưởng Mỹ, luật pháp quốc tế đã nêu rất rõ ràng là một cấu trúc dưới nước như bãi ngầm James (nằm cách mặt nước biển khoảng 20m) không thể được bất cứ quốc gia nào tuyên bố chủ quyền và không thể tạo ra các vùng hàng hải. Mỹ khẳng định bãi ngầm James không phải và chưa bao giờ là lãnh thổ của Trung Quốc (theo yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc) và Bắc Kinh không thể khẳng định bất cứ quyền hàng hải hợp pháp nào từ đó.
Áp lực pháp lý và quân sự với tham vọng của Trung Quốc
Việc Mỹ căn cứ theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là “hiến pháp về biển và đại dương”, để bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền phi lý và phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ tạo áp lực pháp lý đối với Bắc Kinh. Điều này để ngỏ khả năng Mỹ sẽ mở mặt trận pháp lý để bác bỏ đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông theo yêu sách “đường lưỡi bò 9 đoạn” năm 2009 hay thuyết “Tứ Sa” năm 2013.
Trong cuộc họp báo diễn ra chỉ 2 ngày sau khi ra Tuyên bố bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, Ngoại trưởng Mike Pompeo ngày 15-7 cho biết, Mỹ sẽ hỗ trợ các nước bị Trung Quốc vi phạm tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông thông qua các phương tiện ngoại giao cũng như pháp lý. Người đứng đầu cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ nêu rõ: “Chúng tôi sẽ ủng hộ tất cả các quốc gia trên khắp thế giới cho rằng họ bị Trung Quốc vi phạm tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cũng như lãnh hải hợp pháp. Chúng tôi sẽ hỗ trợ họ, dù là tại các cơ quan đa phương, tại ASEAN hay thông qua phản ứng pháp lý, chúng tôi sẽ sử dụng tất cả công cụ có thể”. Ngoại trưởng Mike Pompeo một lần nữa khẳng định, thế giới sẽ không cho phép Trung Quốc coi Biển Đông là “đế chế hàng hải của riêng mình”. Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh, Washington sẽ sát cánh cùng các đồng minh và đối tác Đông Nam Á trong bảo vệ chủ quyền của họ và các tài nguyên ngoài khơi, phù hợp với quyền và nghĩa vụ theo luật quốc tế.
Trong khi Ngoại trưởng Mike Pompeo cam kết sát cánh với đồng minh và các đối tác ở Đông Nam Á trong vấn để Biển Đông, Mỹ triển khai hàng loạt hoạt động mạnh mẽ để phản ứng điều mà nước này cho là những hành vi dọa nạt các nước láng giềng, thúc đẩy yêu sách hàng hải bất hợp pháp của Trung
Quốc tại vùng biển này. Giới chuyên gia cho rằng, sau tuyên bố của Ngoại trưởng Pompeo, Mỹ còn gia tăng sức ép để Trung Quốc phải tuân thủ luật pháp quốc tế thông qua việc tiến hành các cuộc tuần tra, chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải, hàng không của tàu chiến, nhóm tác chiến tàu sân bay và máy bay.
Cùng với đó, Mỹ còn phối hợp với các đồng minh ở Ấn Độ – Thái Bình Dương và châu Âu để bảo đảm tuân thủ luật pháp quốc tế, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Mỹ được cho sẽ cùng một số nước đồng minh như Nhật Bản, Pháp, Anh, Australia… tiến hành thường xuyên hơn các hoạt động tuần tra hải quan bảo vệ tự do đi lại ở Biển Đông.
Có thông tin giới chức quân sự Anh đã lên kế hoạch triển khai nhóm tác chiến tàu sân bay HMS Queen Elizabeth đến Biển Đông vào đầu năm 2021 để tham gia chiến dịch đối phó với một Trung Quốc ngày càng khiêu khích. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana cũng cho biết, Ấn Độ đã bày tỏ mong muốn tiến hành các hoạt động hàng hải trên biển Đông, tương tự Mỹ, Anh và những quốc gia khác để duy trì cân bằng sức mạnh trong khu vực.
Biển Đông: Công ty nhà nước TQ
có thể phải đối mặt với lệnh trừng phạt của Mỹ
Một số công ty nhà nước Trung Quốc có thể sẽ phải đối diện với trừng phạt của Hoa Kỳ, vì vai trò của họ trong việc mở rộng sự hiện diện của nước này tại Biển Đông, theo SCMP.
Tờ South China Morning Post hôm thứ Bảy cho biết ông David Stilwell, phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, tuần này cáo buộc Trung Quốc đã sử dụng các công ty nhà nước, để bắt nạt các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông ngõ hầu bảo đảm trữ lượng dầu mỏ và khoáng sản.
Ông Stilwell cũng gợi ý rằng Hoa Kỳ có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp trừng phạt đối với các quan chức và doanh nghiệp liên quan.
Được biết, trong bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế hôm thứ Ba, ông David Stilwell nêu đích danh Công ty Xây dựng Truyền thông Trung Quốc (CCCC) thuộc sở hữu nhà nước, đã giúp phát triển nhiều hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông, và Tổng Công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNOOC), đặt một giàn khoan lớn trong vùng biển tranh chấp cũng được Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Trong khi ông David Stilwell không nói các biện pháp trừng phạt sẽ như thế nào, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Marco Rubio trước đó cũng đã thúc đẩy các biện pháp trừng phạt đối với một số công ty nhà nước Trung Quốc – trong đó có CNOOC, CCCC và hai công ty con – yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ chặn tài sản của họ ở Mỹ và loại trừ quan chức các công ty làm kinh doanh tại Mỹ.
Bình luận của David Stilwell được đưa ra sau khi Washington bác bỏ yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc với Biển Đông, làm tăng nguy cơ tình trạng đối đầu có thể xảy ra giữa hai nước.Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông và các nguồn tài nguyên ngoài khơi của họ dựa trên cái gọi là ”đường chín đoạn”, nhưng nhiều nước láng giềng, gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei, có quan điểm trái ngược.
Giới quan sát cho biết bất kỳ lệnh trừng phạt nào cũng sẽ phụ thuộc vào cách Mỹ và các nước Đông Nam Á định nghĩa hành động của Trung Quốc.
“Thỏa thuận giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á về thời điểm và nơi Trung Quốc có thể được coi là hành động bất hợp pháp… tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán, hoặc hành động pháp lý của các quốc gia bị kích động”, Jay Batongbacal, giáo sư về vấn đề hàng hải quốc tế tại Đại học Philippines, nói.”Chẳng hạn, nếu CNOOC tìm cách trao quyền các khối thăm dò trên một khu vực của thềm lục địa của Malaysia, Malaysia và Mỹ sẽ có lý khi có hành động pháp lý chống CNOOC, nếu CNOOC có hoạt động kinh doanh khác với họ”, ông Batongbacal nói.
Điều này có thể gây tổn hại nhiều hơn, khi nhiều công ty nhà nước Trung Quốc đã tích cực tham gia vào Sáng kiến Vành đai và Con đường, kế hoạch thúc đẩy đầu tư và cơ sở hạ tầng toàn cầu của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Ví dụ, CNOOC sở hữu các dự án trên bờ ở các tiểu bang Texas, Colorado và Wyoming của Hoa Kỳ, cũng như ở Vịnh Mexico, trong khi công ty con của nó có cổ phần trong một số dự án dầu ở Mỹ.
CCCC, trong khi đó, đã hợp tác chặt chẽ với các nước Đông Nam Á và vào tháng 12, giành được hợp đồng trị giá 10 tỷ đôla để xây dựng một sân bay quốc tế bên ngoài Manila, theo chương trình Vành đai và Con đường.
Ngay sau khi Philippines đệ đơn kiện Trung Quốc tại The Hague vào năm 2013, Bắc Kinh đã tiến hành cuộc nạo vét chưa từng có ở quần đảo Trường Sa ở Biển Đông, để tạo ra bảy hòn đảo nhân tạo, International Financial News, một tờ báo liên kết với cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Daily Daily, đưa tin năm 2015.
Vào tháng Năm, 2014, được theo sau bởi 86 tàu Trung Quốc, bao gồm tàu khu trục hải quân và hai tàu đổ bộ, giàn khoan Haiyang Shiyou 981 trị giá 1 tỷ đôla đã được chuyển đến vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông.
Bắc Kinh nói giàn khoan Haiyang Shiyou 981 hoạt động trong lãnh thổ của mình, nhưng Hà Nội nói dàn khoan này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hà Nội cũng cáo buộc Bắc Kinh đã sử dụng chiến thuật bắt nạt và tìm cách đâm vào các tàu đánh cá Việt Nam ở vùng biển giàu năng lượng.
Dàn khoan này đã được gỡ bỏ vào tháng Bảy cùng năm, động thái mà Bắc Kinh cho là phù hợp với kế hoạch ban đầu của Trung Quốc.
Bắc Kinh đã bị chỉ trích khắp nơi vì xây dựng đảo và quân sự hóa Biển Đông.
Các công ty nhà nước Trung Quốc đã nhiệt tình tham gia vào nỗ lực phát triển này, với các hình ảnh vệ tinh được phân tích bởi tư vấn quốc phòng IHS Jane cho thấy Công ty nạo vét Thiên Tân – một công ty con của CCCC – đã đóng một vai trò trong việc phát triển các đảo san hô – bao gồm các rạn san hô đá vành Khăn và đá Chữ Thập – vào các hòn đảo lớn hơn hiện là nhà của phi đạo và các cơ sở quân sự.
Mỹ cáo buộc Trung Quốc quân sự hóa trên Biển Đông
Trước đó, trong tuyên bố được đưa ra sáng 14/7, Hoa Kỳ khẳng định:
“Hoa Kỳ bảo vệ một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, và tuyên bố:
“Các yêu sách của Bắc Kinh đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi tại hầu hết Biển Đông, cũng như chiến dịch bắt nạt để kiểm soát các nguồn tài nguyên đó, là hoàn toàn bất hợp pháp.”
Hoa Kỳ cũng cho rằng mong muốn giữ “hòa bình và ổn định, tự do trên biển theo luật pháp quốc tế” vì “lợi ích chung” “đã gặp phải sự đe dọa chưa từng thấy từ Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa.
“Bắc Kinh sử dụng sự hăm dọa nhằm làm suy yếu quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển ở Đông Nam Á, bắt nạt họ trong vấn đề tài nguyên ngoài khơi, khẳng định sự thống trị đơn phương và thay thế luật pháp quốc tế bằng “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Phương pháp tiếp cận này của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ trong nhiều năm. Năm 2010, Bộ trưởng Ngoại giao của CHND Trung Hoa khi đó là ông Dương Khiết Trì đã tuyên bố với những người đồng cấp ASEAN rằng “Trung Quốc là một nước lớn và các quốc gia khác là nước nhỏ và đó là sự thật.”
“Thế kỷ 21 không có chỗ cho thế giới quan đầy dã tâm của CHND Trung Hoa.”
“CHND Trung Hoa không có căn cứ pháp lý nào để đơn phương áp đặt ý chí của họ lên khu vực. Bắc Kinh đã không đưa ra cơ sở pháp lý rõ ràng nào cho yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông kể từ họ khi chính thức công bố vào năm 2009. Trong một phán quyết được đồng thuận ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài được thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 – mà CHND Trung Hoa là một thành viên – đã bác bỏ các yêu sách hàng hải của CHND Trung Hoa vì không có căn cứ dựa trên luật pháp quốc tế. Tòa Trọng tài đứng về phía Philippines, bên đưa vụ việc lên Tòa Trọng tài, trong hầu hết các yêu sách của nước này.”
Thông cáo của Hoa Kỳ cũng nhắc lại phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 và cho rằng đây là “phán quyết cuối cùng” và “mang tính ràng buộc về pháp lý với cả hai bên”.
0 comments