Tin Biển Đông – 07/05/2020
Căng thẳng tàu chiến Mỹ, TQ và Australia ngoài khơi Malaysia
Sự xuất hiện đầy sức mạnh của tàu chiến Mỹ và Australia ngoài khơi Malaysia cho thấy cam kết của Washington đối với khu vực trước hành động bắt nạt của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Sự phô diễn sức mạnh gần đây dọc theo bờ biển Borneo của Malaysia là phản ứng mạnh mẽ của Hải quân Mỹ đối với hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, trấn an các nước Đông Nam Á rằng Washington không quay lưng với khu vực, tạp chí Foreign Policy cho biết.
Trong nhiều ngày từ 20/4, tàu đổ bộ tấn công USS America (LHA-6) mang theo các tiêm kích tàng hình F-35 và trực thăng cùng đơn vị thủy quân lục chiến tuần tra với 2 tàu hộ tống gồm tàu khu trục USS Barry và tuần dương hạm USS Bunker Hill tổ chức tập trận gần khu vực căng thẳng giữa Trung Quốc và Malaysia.
Nhóm tàu chiến Mỹ tiến gần tàu khảo sát Hải dương Địa chất 8 (HD-8) của Trung Quốc, đi kèm với đội tàu hải cảnh, tàu đánh cá, được gọi là lực lượng dân quân hàng hải của Trung Quốc.
Khi tàu chiến Mỹ xuất hiện, 2 tàu hộ vệ tên lửa và một tàu khu trục của Trung Quốc cũng xuất hiện.
Ép Malaysia phải hợp tác
Mục tiêu của lực lượng hàng hải hỗn hợp, nhưng có sự phối hợp chặt chẻ của Trung Quốc là West Capella, tàu thăm dò dầu khí thuộc sở hữu của Petronas, tập đoàn năng lượng quốc doanh của Malaysia.
Nó đã hoạt động gần rìa ngoài của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ) của Malaysia, ngoài khơi Sarawak, kể từ cuối năm 2019.
Sự việc trở nên căng thẳng khi tàu khảo sát HD-8 của Trung Quốc được hộ tống bởi các tàu hải cảnh, và dân quân hàng hải xuất hiện để cản trở hoạt động của tàu thăm dò Malaysia.
Mục đích rõ ràng của Trung Quốc là đe dọa và phá hoại hoạt động thăm dò của Malaysia, ép buộc các quốc gia Đông Nam Á khác chấp nhận khai thác chung (ngoài biển) với Trung Quốc.
Bắc Kinh đã nhiều lần thực hiện những cuộc khảo sát kiểu “ép buộc” như vậy, xâm lấn dần về phía nam, dù thực tế Trung Quốc không có cơ sở theo luật pháp quốc tế để có thể tuyên bố quyền tài phán. Bắc Kinh đã đơn phương tuyên bố cái gọi là “đường chín đoạn”, chiếm tới 80% diện tích Biển Đông, từ lâu bị phần lớn cộng đồng quốc tế bác bỏ.
Một số nhà phân tích cho rằng Trung Quốc đang ép các nước Đông Nam Á phải hợp tác với Bắc Kinh trong các hoạt động thăm dò dầu khí trên Biển Đông.
Ngoại trưởng Malaysia Hishammuddin Hussein đã ra tuyên bố khẳng định cam kết của Malaysia trong việc bảo vệ lợi ích và quyền lợi của họ trên biển. Ngoại trưởng Hussein cũng tìm cách giữ Malaysia ở thế cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ.
Phản ứng táo bạo của Hạm đội 7
Việc tàu sân bay USS Theodore Roosevelt phải vào bờ ở đảo Guam do Covid-19 và một tàu sân bay khác đang bảo trì ở Nhật Bản, điều động tàu đổ bộ tấn công USS America đến tây Thái Bình Dương là minh chứng táo bạo cho khả năng phản ứng của Hạm đội 7 trước các động thái của Trung Quốc.
Nhóm tàu đổ bộ tấn công USS America kết hợp với tàu khu trục HMAS Parramatta của Hải quân Hoàng gia Australia đã tiến hành cuộc tập trận trên Biển Đông, dù Hải quân Mỹ từ chối tiết lộ vị trí cụ thể của các tàu chiến.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo từng nói rằng Mỹ kịch liệt phản đối hành động bắt nạt của Trung Quốc và “chúng tôi hy vọng các nước khác sẽ yêu cầu Trung Quốc giải thích điều này”.
Sau vài ngày và không có thêm sự leo thang nào nữa, USS America và các tàu hộ tống của nó, cùng tàu khu trục của Australia rời khỏi hiện trường. Các tàu chiến Trung Quốc cũng rút lui, tuy vậy tàu HD-8 vẫn hoạt động ở đó dưới sự hộ tống của 4 tàu hải cảnh.
Vào ngày 25/4, một tàu chiến ven biển của Hải quân Mỹ đồn trú tại Singapore đã di chuyển gần tàu thăm dò West Capella, nhưng không nán lại. Dù nhóm tàu chiến Mỹ đã rút khỏi khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Malaysia, nhưng vẫn duy trì sự hiện diện trên Biển Đông.
Ngày 28/4, tàu khu trục USS Barry áp sát quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép, trong nhiệm vụ tuần hành tự do hàng hải. Ngày 29/4, tuần dương hạm USS Bunker Hill tuần hành tự do hàng hải ở quần đảo Trường Sa.
Không quân chiến lược Mỹ cũng điều động 2 máy bay ném bom chiến lược B-1B Lancer bay thẳng từ Mỹ đến tuần tra Biển Đông. Đối với Hạm đội 7 chịu trách nhiệm bao phủ một khu vực rộng lớn ở Ấn Độ – Thái Bình Dương, nhiệm vụ này là rất khó khăn, đặc biệt là khi đối phó với Trung Quốc có đội tàu đông đảo nhất thế giới.
Hoạt động ở Biển Đông là một thách thức lớn đối với Hải quân Mỹ, vì căn cứ gần nhất của họ là ở Nhật Bản và đảo Guam, cùng với bộ phận hậu cần và phương tiện neo đậu cho tàu chiến duyên hải ở Singapore, nhưng Hải quân Mỹ đã chứng minh họ luôn xuất hiện ở các điểm nóng vào thời điểm cần thiết.
Giới phân tích cho rằng, Hải quân Mỹ cần một phương tiện có thể hiện diện ở Biển Đông lâu và ít leo thang hơn. Tàu chiến duyên hải được xem là phương tiện phù hợp, nhưng chương trình này đang vấp phải sự chỉ trích vì khả năng chiến đấu khiêm tốn và các vấn đề về độ tin cậy.
Sự cân bằng lý tưởng giữa nhanh nhẹn, răn đe và tự bảo vệ ở Biển Đông có lẻ trông giống một tàu hộ vệ tên lửa. Hải quân Mỹ đã bày tỏ sự quan tâm đến thiết kế khinh hạm tàng hình của Hải quân Italy.
Giá trị của Hải quân Hoàng gia Australia ở Biển Đông không phải chỉ là biểu tượng, dù căn cứ của họ nằm cách xa Biển Đông hơn các căn cứ của Hạm đội 7.
Sự tham gia của tàu chiến Australia trên Biển Đông chứng minh cam kết của nước này về một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do, cởi mở.
http://biendong.net/bien-dong/34541-cang-thang-tau-chien-my-tq-va-australia-ngoai-khoi-malaysia.html
Âm mưu dùng ‘Tứ Sa’
để thay thế đường lưỡi bò của TQ
Với chiến lược “Tứ Sa”, Trung Quốc âm mưu yêu sách vùng biển còn lớn hơn cả khu vực giới hạn trong “đường lưỡi bò”, nhưng cả hai đều không có cơ sở pháp lý và cố ý nhập nhằng.
Trong bài viết được đăng trên chuyên trang Maritime Issues hồi cuối tháng 4, phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh đưa ra lời cảnh báo nghiêm khắc.
“Trong khi cộng đồng quốc tế có thể chọn cách cười nhạo những yêu sách vô căn cứ của Trung Quốc hoặc theo dõi và lên tiếng chống lại những nỗ lực của họ nhằm viết lại luật quốc tế, thì những nước im lặng sẽ phải đối mặt với hậu quả hiển nhiên là một trật tự thế giới mới chỉ có lợi cho một nước và gây bất lợi cho tất cả”.
“Yêu sách vô căn cứ” mà vị chuyên gia hàng đầu Việt Nam về luật biển, nguyên phó viện trưởng Viện Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao, nhắc đến là cái mà Trung Quốc gọi là “Nam Hải chư đảo”, hay “Tứ Sa”, đề cập đến các đảo, đá và thực thể khác ở Biển Đông.
Trong động thái mà bà Lan Anh cho là có liên quan đến yêu sách này, Trung Quốc hôm 19/4 đã công bố cái gọi là “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể ở Biển Đông.
Vị chuyên gia cho rằng dù chưa rõ Trung Quốc sẽ gộp 80 thực thể mà họ nói là mới phát hiện này vào Hoàng Sa hay Trường Sa, điều “tương đối chắc chắn” là Trung Quốc xem chúng thuộc “Nam Hải chư đảo” và vì vậy có thể tạo ra quyền và lợi ích trên biển.
Chiêu sách mới “Tứ Sa”
Lập luận “Tứ Sa” được đề cập một cách không chính thức vào tháng 8/2017 bởi Hạ Tân Dân, người khi đó là vụ phó Vụ Điều ước và Luật pháp thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong một cuộc họp kín với các quan chức Mỹ ở Boston, để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông.
“Tứ Sa” bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (Bắc Kinh gọi tương ứng là Tây Sa và Nam Sa), bãi ngầm Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Bắc Kinh gộp chung gọi là “quần đảo Trung Sa”, cùng nhóm đảo Pratas mà Bắc Kinh gọi là “quần đảo Đông Sa”.
Trước đó, Trung Quốc đưa ra yêu sách “đường chín đoạn” hay “đường lưỡi bò” để tuyên bố chủ quyền đối với khoảng 80% diện tích Biển Đông, bao gồm các nhóm thực thể nói trên và vùng biển lân cận.
Tuy nhiên, cái gọi là “đường lưỡi bò” đã bị tòa trọng tài quốc tế bác bỏ vào năm 2016, khiến Trung Quốc, dù tuyên bố không thừa nhận phán quyết, vẫn cần phải xây dựng yêu sách và lập luận mới.
“Ngay cả các luật sư quốc tế Trung Quốc cũng biết rằng đường lưỡi bò không có cơ sở trong luật quốc tế”, tiến sĩ Zachary Abuza, nhà nghiên cứu về chính trị và an ninh Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington D.C., nói với Zing.
“Vì vậy, nếu họ là luật sư thông minh, họ sẽ cố thuyết phục thân chủ của mình áp dụng chiến lược có căn cứ pháp luật hơn một chút”.
Chiến lược đó chính là “Tứ Sa”, dù nguồn gốc của cách tiếp cận này không phải mới.
Trên thực tế, “Tứ Sa” là cách diễn đạt nôm na cho cái mà Trung Quốc từ lâu đã gọi là “Nam Hải chư đảo”, tức “các đảo ở Nam Hải”, theo cách nước này gọi Biển Đông.
Trong công hàm gửi Tổng thư ký LHQ hôm 17/4, Trung Quốc lấy lý lẽ “dựa trên UNCLOS” để đòi các quyền và lợi ích với “Nam Hải chư đảo”, cũng như các quyền và lợi ích ở Biển Đông dựa trên các tập quán lịch sử và luật pháp quốc tế, theo bà Lan Anh.
Dùng “Tứ Sa” để có vẻ phù hợp với UNCLOS
Vị chuyên gia luật biển cho rằng Trung Quốc đưa ra “Tứ Sa” để những yêu sách của họ về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đối với “Nam Hải chư đảo” có vẻ “phù hợp hơn” với ngôn ngữ của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982, tránh sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế.
Thay vì tuyên bố “chủ quyền lịch sử” đối với vùng biển nằm trong “đường lưỡi bò”, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc mà họ xem là đảo.
“Trung Quốc đang cố giảm bớt vai trò của ‘đường lưỡi bò’ vì đó là sự xấu hổ và không nước nào chấp nhận yêu sách đó”, James Kraska, giáo sư về luật biển quốc tế tại Đại học Hải chiến Mỹ, trả lời Zing.
“Họ chuyển hướng sang ‘Tứ Sa’ vì nó có thể giúp họ yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý xung quanh các nhóm đảo này”.
Về bản chất, hai yêu sách này chỉ là “bình mới rượu cũ”. Thông qua việc kết luận rằng các nhóm đảo thuộc “Tứ Sa” có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán rộng đến 200 hải lý, Trung Quốc vẫn đang yêu sách các vùng biển mà ghép lại sẽ có phạm vi gần như không khác biệt, thậm chí còn rộng hơn, so với vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, theo các chuyên gia.
Tôi nghĩ việc Trung Quốc đề cập đến ‘Tứ Sa’ chỉ là cách để chuyển hướng chú ý vốn tập trung vào ‘đường lưỡi bò’ mà thôi. ‘Đường lưỡi bò’ vẫn nằm đó”, Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại RAND Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách có trụ sở tại California, nói với Zing.
“Đó là cách để Trung Quốc nói họ có chủ quyền với 90% diện tích Biển Đông, bao gồm các cấu trúc và vùng biển trong giới hạn họ tự đặt ra”.
Xét trên góc độ luật pháp quốc tế, yêu sách “Tứ Sa” cũng là một phiên bản mơ hồ, không có cơ sở pháp lý, giống như yêu sách “đường lưỡi bò”. Hay nói cách khác, Trung Quốc vẫn dựa trên việc diễn giải tùy tiện luật pháp quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát toàn bộ các cấu trúc và vùng biển ở Biển Đông.
Không có đường cơ sở với các điểm và cấu trúc của “Tứ Sa”
Nội hàm của Tứ Sa bao gồm yêu sách về chủ quyền với các nhóm đảo và yêu sách về các vùng biển.
Đối với yêu sách vùng biển, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục thiết lập đường cơ sở bao quanh các cấu trúc thuộc các nhóm đảo, như đã làm với Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam đang bị Trung
Quốc chiếm đóng). Từ đường cơ sở đó, Trung Quốc sẽ yêu sách vùng lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, cũng như không loại trừ yêu sách thềm lục địa, cho cả 4 nhóm đảo.
Theo các chuyên gia, các quy định trong UNCLOS mà Trung Quốc là thành viên không cho phép Trung Quốc thiết lập đường cơ sở đối với bất cứ nhóm đảo nào thuộc “Tứ Sa”, dù là đường cơ sở quần đảo hay đường cơ sở thẳng.
Ngoài ra, phán quyết của tòa quốc tế năm 2016 cũng bác bỏ khả năng vẽ đường cơ sở thẳng đối với Trường Sa, cũng như khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của các cấu trúc thuộc Trường Sa và Scarborough.
Những kết luận này cũng sẽ áp dụng với các nhóm đảo còn lại trong “Tứ Sa”.
Đối với yêu sách về chủ quyền các nhóm đảo, việc không nêu rõ phạm vi từng nhóm đảo thuộc “Tứ Sa” được cho là để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào các nhóm đảo này, cho dù đó là cấu trúc chìm hay nửa nổi nửa chìm.
Với nhận định đó, việc Trung Quốc công bố “danh xưng tiêu chuẩn, như một cách khẳng định chủ quyền, đối với 80 cấu trúc “mới phát hiện” ở Biển Đông, bao gồm 55 thực thể địa lý dưới đáy biển, gây ra những quan ngại về dã tâm của Bắc Kinh.
Các nhà nghiên cứu tại Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, đã xác định vị trí các cấu trúc với tọa độ được Trung Quốc công bố.
Đáng chú ý là 55 thực thể địa lý dưới đáy biển đều nằm trong vùng 200 hải lý của Việt Nam và nằm ngoài khá xa vùng 12 hải lý của bất cứ cấu trúc nổi nào mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, theo bà Lan Anh.
“Quỹ đạo mới nhất của các yêu sách, trong đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc chìm dưới nước và các quyền lợi trên biển từ 4 nhóm đảo xa xôi ở Biển Đông, thách thức các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”, chuyên gia luật biển viết trên Maritime Issues.
Đặt trong bối cảnh diễn dịch yêu sách “Tứ Sa”, bà Lan Anh cho rằng việc tuyên bố chủ quyền đối với 55 thực thể này “có thể báo hiệu rằng Trung Quốc đã tích lũy đủ sức mạnh và sự tự tin để chống lại luật pháp quốc tế, đồng thời tự đặt ra luật của riêng họ”.
“‘Tứ Sa’ là một lăng kính mà qua đó các yêu sách dài hạn đầy tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông được phơi bày hoàn toàn”, bà viết.
“Bất kể bao nhiêu ‘Sa’, có thể là 2 ‘Sa’ phổ biến như Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc 3 như tên của thành phố ‘Tam Sa’ chỉ ra, hoặc 4 bao gồm cả Pratas và Macclesfield, tham vọng lâu dài của Trung Quốc là tối đa hóa các yêu sách chủ quyền trên biển”.
0 comments