Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Mười bài thơ Xuân của Trần Nhân Tôngth

Thursday, February 7, 2019 6:17:00 AM // ,

Mười bài thơ Xuân của Trần Nhân Tông



Nhân dịp đầu Xuân Kỷ Hợi, trong không khí trong lành của mùa Xuân và rộn ràng của những ngày đầu năm âm lịch, xin mời quý vị cùng chúng tôi đi ngược lại dòng thời gian, trở về một thời huy hoàng của triều đại nhà Trần với những chiến công hiển hách chống quân Nguyên Mông và cùng đọc lại mười bài thơ Xuân đậm âm sắc thiền của vua Trần Nhân Tông với lời thơ chuyển qua Việt ngữ theo nguyên thể và thể Lục Bát thuần túy Việt Nam của Bùi Phạm Thành.

Trần Nhân Tông (7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng Hoàng 15 năm.

Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua văn võ toàn tài, mà còn là một người đức độ vô song, đã sáng lập ra hệ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chỉ cần đọc qua thơ văn của ông cũng đủ thấy ông là người đạo hạnh, có tầm nhìn sâu sắc của một thiền giả thấu hiểu lẽ vô thường của tạo hóa. Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi của bài “Cư trần lạc đạo phú”, Trần Nhân Tông đã trả lời một cách rất rõ ràng cho câu hỏi “Thiền là gì?”

Kệ văn (Cư Trần Lạc Đạo Phú)

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch nghĩa:

Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà có sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà lòng không bị ngoại cảnh chi phối, thì cần gì phải hỏi đến thiền nữa.
Bài Kệ (Bài Phú Sống Trần Vui Đạo)

Đời trần, kiếp đạo hãy tùy duyên,
Khi đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Nhà đầy báu vật tìm đâu khác,
Thản nhiên ngắm cảnh, hỏi chi thiền.

Thể Lục Bát:

Sống đời, sống đạo tùy duyên,
Đói ăn, mệt hãy ngủ liền một khi.
Trong nhà của báu thiếu gì,
Thản nhiên ngắm cảnh hỏi chi đến thiền.


1. Xuân Hiểu

Thụy khởi khải song phi, 

Bất tri xuân dĩ quy. 

Nhất song bạch hồ điệp, 

Phách phách sấn hoa phi.

Dịch Nghĩa:

Ngủ dậy mở cánh cửa sổ,

Không biết mùa xuân đã về. 

Có một đôi bướm trắng,

Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.
Sáng Sớm Mùa Xuân

Ngủ dậy mở đôi cửa,
Xuân về cũng chẳng hay.
Có một đôi bướm trắng,
Bên hoa vỗ cánh bay.

Thể Lục Bát:

Sáng sớm mở cánh cửa ra,
Nào hay Xuân đã về qua nơi này.
Một đôi bướm trắng lượn bay,
Tung tăng vỗ cánh vui vầy bên hoa.
2. Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng

Tì hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

Dịch Nghĩa:

Lính thị vệ như cọp, đứng nghiêm túc trước ngàn cửa, 
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm. 
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay, 
Thường nhắc lại chuyện Nguyên Phong đã qua rồi.

Chú thích:

Chiêu lăng: Lăng vua Trần Thái Tông, ông nội của Trần Nhân Tông
Nguyên Phong: Niên hiệu của Trần Thái Tông
Ngày Xuân Thăm Chiêu Lăng

Lính như cọp gác cửa,
Quan bảy phẩm hầu trong.
Những người lính đầu bạc,
Vẫn nhắc chuyện Nguyên Phong.

Thể Lục Bát:

Quân hầu như hổ đứng canh
Bá quan bảy phẩm chầu quanh điện thờ
Lính xưa đầu tóc bạc phơ
Vẫn còn nhắc nhở chuyện thời Nguyên Phong.
3. Động Thiên Hồ Thượng

Động thiên hồ thượng cảnh,
Hoa thảo giảm xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.

Dịch Nghĩa:

Quang cảnh hồ Động Thiên, 
Hoa cỏ [có vẻ] giảm sút nét xuân tươi.
Trời thương xót nỗi hiu quạnh [nơi này], 
Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông giữa tầng biếc.
Trên Hồ Động Thiên

Quang cảnh hồ Động Thiên
Cỏ hoa có nét buồn
Trời thương niềm hiu quạnh
Vọng lại một hồi chuông.

Thể Lục Bát:

Động Thiên quang cảnh quanh hồ
Cỏ hoa như đã gầy gò nét xuân
Tịch liêu trời cũng động tâm
Trên không thoảng tiếng chuông ngân vọng về.
4. Xuân Cảnh

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.

Dịch Nghĩa:

Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi, 
Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay. 
Khách đến chơi không hỏi việc đời, 
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.
Cảnh Xuân

Trong khóm hoa dương chim hót vang,
Dưới thềm như vẽ bóng mây ngàn.
Khách đến chuyện đời không han hỏi,
Cùng ngắm trời xanh tựa lan can.

Thể Lục Bát:

Cành dương ríu rít tiếng chim,
Bóng mây vẽ xuống bên hiên chiều tà.
Khách không hỏi chuyện gần xa,
Lan can đứng tựa cùng ta ngắm trời.
5. Xuân Vãn

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Dịch Nghĩa:

Thuở nhỏ chưa từng hiểu thấu lẽ Sắc Không, 
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi chuyện lòng trong trăm hoa. 
Ngày nay đã thấy rõ được bộ mặt chúa Xuân [đông hoàng], 
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa hồng rơi rụng.
Chiều Xuân

Thuở nhỏ chưa từng hiểu Sắc Không,
Chuyện lòng vẫn gửi mỗi mùa Xuân.
Chúa Xuân nay đã nhìn rõ mặt,
Nệm cỏ nhìn xem rụng đóa hồng.

Thể Lục Bát:

Thiếu thời chưa hiểu Sắc Không,
Xuân về vẫn gửi chuyện lòng trăm hoa.
Chúa Xuân giờ đã nhìn ra,
Ngồi trên nệm cỏ ngắm hoa hồng tàn.

Tranh Tết của Đông Hồ

6. Quỹ Trương Hiển Khanh Xuân Bính

Giá chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.

Dịch Nghĩa:

Múa bài giá chi xong rồi, [mặc] thử tấm áo ngày xuân, 
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết [hàn thực] mồng ba tháng ba. 
Bánh rau mùa xuân, như ngọc hồng bày biện đầy mâm, 
Đó là phong tục của nước An Nam [ta] từ xưa.

Ghi chú:

Trương Hiển Khanh: Tức Trương Lập Đạo là sứ giả của Tàu, đời nhà Nguyên.
Tặng Bánh Ngày Xuân Cho Trương Hiển Khanh

Sau múa Giá Chi, thử áo Xuân,
Mồng ba tháng ba lễ hàng năm.
Bánh rau hồng ngọc bầy lên đĩa,
Tục lệ người Nam mỗi tiết Xuân.

Thể Lục Bát:

Xem múa xong, thử áo Xuân,
Ba tháng Ba đó hàng năm nhớ ngày.
Bánh rau hồng ngọc mâm đầy,
Từ xưa là tục lệ này nước Nam.
7. Sơn Phòng Mạn Hứng Kỳ Nhị

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

Dịch Nghĩa:

Nghĩ chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng, 
Lòng [ham] danh lợi lạnh theo trận mưa đêm. 
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non im vắng, 
Một tiếng chim kêu, [thế rồi] lại cảnh xuân tàn.
Ngẫu Hứng ở Sơn Phòng – Bài 2

Thị phi rơi với hoa ban sáng,
Danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa tàn, mưa tạnh, núi im vắng,
Một tiếng chim kêu, xuân nát mềm.

Thể Lục Bát:

Thị phi rơi xuống cùng hoa,
Lợi danh lạnh với đêm qua mưa tràn.
Núi im, mưa tạnh, hoa tàn,
Chim kêu một tiếng cho tàn cảnh xuân.
8. Đăng Bảo Đài Sơn

Địa tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.

Dịch Nghĩa:

Đất [nơi đây là nơi] hẻo lánh, [nên] đài [càng] thêm cổ kính, 
Theo thời tiết, mùa xuân [nơi đây] về chưa lâu. 
Núi mây [nhìn] như xa, như gần, 
Ngõ hoa nửa rợp bóng, nửa nắng chiếu. 
Muôn việc như nước tuôn [theo] nước, 
Trăm năm lòng lại nhủ lòng. 
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo quý như ngọc, 
Ánh trăng sáng rơi đầy trước ngực.
Lên Núi Bảo Đài

Đất vắng, đài càng cổ,
Xuân đến cũng chưa lâu.
Núi mây như gần lại,
Ngõ hoa nắng nghiêng đầu.
Muôn sự trôi theo nước,
Trăm năm nhủ lòng sau.
Lan can nâng sáo ngọc,
Trăng soi ngực rạng mầu.

Thể Lục Bát:

Cảnh làm cổ kính đền đài,
Xuân theo mùa đến bên ngoài chưa lâu.
Núi mây gần lại cùng nhau,
Ngõ hoa nửa rợp nửa màu nắng soi.
Việc đời theo nước chảy xuôi,
Nhủ lòng ta mãi cuộc đời trăm năm.
Tựa lầu sáo ngọc tay nâng,
Mới hay trước ngực sáng ngần ánh trăng.
9. Tảo Mai Kỳ Nhất

Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!

Dịch Nghĩa:

Năm cánh hoa tròn thơm, nhụy hoa điểm sắc vàng, 
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi. 
Cành hoa trắng xóa suốt ba tháng đông, 
Sang đầu xuân, chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ. 
Sương ngọt chảy mùi thơm, làm con bướm tỉnh giấc say đắm, 
Ánh sáng ban đêm như nước, khiến con chim khát nước buồn bã. 
Nếu Hằng Nga biết được dáng vẻ xinh đẹp của hoa mai, 
Thì chẳng ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Hoa Mai Buổi Sáng – Bài 1

Năm cánh tròn thơm nhụy điểm vàng,
Như san hô lặn vảy cá dương.
Ba tháng mùa đông khoe sắc trắng,
Một sáng xuân về thoảng chút hương.
Giọt sương thơm ngát cho bướm tỉnh,
Ánh trăng như nước khiến chim buồn.
Hằng Nga nếu biết hoa mai đẹp,
Cung quế, thềm hoang chắc cũng thường.

Thể Lục Bát:

Tỏa ra năm cánh tròn xoe,
Đều như vảy cá lại khoe nhụy vàng.
Trắng ngần ba tháng mùa đông,
Đầu xuân còn lại mấy phần hương thơm.
Bướm kia tỉnh bởi giọt sương,
Ánh trăng như nước chim buồn khát kêu.
Biết hoa mai đẹp bao nhiêu,
Hằng Nga chắc cũng chẳng yêu cung hằng.

10. Tảo Mai Kỳ Nhị

Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.

Dịch Nghĩa:

Năm ngày sợ rét, lười ra khỏi cửa, 
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn. 
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan, 
Cành hoa trĩu xuống đầu cành, hơi ấm chưa phân định rõ. 
Giọng ca chim Thuý vũ lắng chìm [theo] ánh trăng ở quán trọ trong núi. 
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan. 
Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa, 
Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.

Chú thích:

Hai câu cuối lấy ý trong bài “Tặng Phạm Diệp” của Lục Khải.
Hoa Mai Buổi Sáng – Bài 2

Sợ lạnh, năm ngày chẳng dám ra,
Gió đông đã sớm ghé cây già.
Bóng ngả mặt hồ băng dần tản,
Cành hoa trĩu nặng ấm chưa qua.
Giọng ca chim thúy theo trăng núi,
Tiếng sáo họa long với mây nhòa.
Một cánh hoa rơi vào cơn mộng,
Tỉnh ra không thể tặng bạn ta.

Thể Lục Bát:

Năm ngày sợ rét chẳng ra,
Gió đông giờ đã ghé qua cây già.
Mặt hồ băng đã tản ra,
Trời chưa đủ ấm hoa đà trĩu cây.
Tiếng chim trong núi đâu đây,
Thoảng nghe tiếng sáo trong mây nhạt nhòa.
Rơi vào một giấc mơ hoa,
Tỉnh ra chẳng có đóa hoa tặng người.
Chiết mai phùng dịch sứ,
Ký dữ Lũng Đầu nhân.
Giang Nam hà sở hữu,
Liêu tặng nhất chi xuân.

Dịch nghĩa:

Bẻ cành mai gặp người đưa tin, 
Gửi cho người [bạn] ở Lũng Đầu. 
Tôi ở Giang Nam không có gì nhiều, 
Tạm gửi tặng một cành hoa xuân
Bẻ một cành hoa mai,
Gửi bạn ở Lũng Đầu.
Quà Giang Nam chỉ có
Một cành xuân tặng nhau.

Thể Lục Bát:

Cành mai thay một đôi câu,
Gửi cho bạn ở Lũng Đầu miền xa.
Giang Nam chẳng có nhiều quà,
Chỉ xin tặng bạn cành hoa xuân này.

Nhân dịp đầu Xuân, bắt chước người xưa, chúng tôi xin gửi đến quý bạn đọc và thân hữu một cành mai ảo với lời chúc an lành gọi là chút quà Xuân văn nghệ.

Bùi Phạm Thành
Đặc San Lâm Viên

Tags: ,

0 comments

Leave a comment

Powered by Blogger.