Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Tin Biển Đông – 23/07/2020

Thursday, July 23, 2020 7:08:00 PM // ,

Tin Biển Đông – 23/07/2020

Biển Đông: Hải quân Indonesia tiến hành tập trận lớn

Hải quân Indonesia đang tiến hành cuộc tập trận lớn tại khu vực Biển Java và Biển Đông, nơi căng thẳng giữa hai nước Hoa Kỳ và Trung Quốc đang gia tăng gần đây.
BenarNews loan tin vừa nêu vào ngày 22 tháng 7 dẫn phát biểu của giới chức Hải quân Indonesia, cho biết Hạm đội Phía Tây tiến hành cuộc tập trận tại Biển Java hôm 22 tháng 7 trong khuôn khổ loạt tập trận bắt đầu từ ngày 18 tháng 7 và kéo dài cho đến Chủ nhật ngày 26 tháng 7.
Những cuộc diễn tập bao gồm tấn công đổ bộ lên bãi biển đảo Singkep nằm trong chuỗi đảo Riau thuộc Biển Đông. Ngoài ra còn có những cuộc chiến giả định trên biển với sự tham dự của 2 ngàn quân binh, 26 tàu chiến, 19 máy bay, 18 phương tiện vận chuyển tác chiến biển.
Cuộc diễn tập tại Biển Java có các hoạt động kiểm soát thiệt hại, thông tin liên lạc và giả định chiến tranh chống ngầm, chiến tranh trên mặt biển.
Phát ngôn nhân Bộ chỉ huy Hải đội I của Hải quân Indonesia, Đại tá Fajar Tri Rohadi, nói với BenarNews rằng đây là đợt tập trận phức tạp nhất vì huy động tất cả các đơn vị Hải quân tham gia vào nhiều hoạt động hơn.
Nhà quan sát quân sự Beni Sukadis tại Viện Nghiên Cứu Chiến lược và Quốc Phòng Indonesia cho rằng đợt tập trận vừa nêu là một trong những nỗ lực nhằm khẳng định chủ quyền biển của Indonesia.
Mặc dù Indonesia không phải là nước có tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại khu vực Biển Đông; nhưng vào năm 2016 và cuối năm 2019, căng thẳng giữa Jakarta và Bắc Kinh nổ ra khi mà Trung Quốc cho các tàu cá tràn vào vùng biển Natuna thuộc tỉnh Riau của Indonesia.
Indonesia bác bỏ đề nghị đàm phán của Trung Quốc về điều mà Bắc Kinh gọi là ‘tuyên bố chồng lấn về quyền và lợi ích biển’ tại vùng ngoài khơi Natuna.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lịch sử và quyền đánh bắt tại vùng biển chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia; tuy nhiên Jakarta bác bỏ tuyên bố đó.
Trong diễn tiến liên quan, hôm 22 tháng 7 Tuần Duyên Indonesia công bố đã khởi động Trung Tâm Thông tin Biển với nhiệm vụ báo cáo định kỳ tình hình an ninh biển của Indonesia.

Philippines tăng cường giám sát Biển Đông

Minh Hòa
Philippines đã cài đặt các thiết bị theo dõi được cải tiến ở Biển Đông để bảo vệ các khu vực mà họ tuyên bố chủ quyền, BenarNews cho biết thông tin từ Bộ trưởng Quốc phòng của nước này hôm 22/7.
Phát biểu tại một cuộc họp báo trực tuyến, Bộ trưởng Delfin Lorenzana cho biết Philippines sẽ theo đuổi “chính sách đối ngoại có nguyên tắc nhằm phục vụ lợi ích quốc gia của chúng tôi”.
Nhà lãnh đạo có lập trường chống Trung Quốc tuyên bố động thái này là nhằm “bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ” của Philippines.
Ông Lorenzana nói: “Trong khi giải quyết những vụ căng thẳng và quấy rối thường xuyên của các tàu quân sự và dân sự Trung Quốc, Philippines đã có những hành động ngoại giao để phản đối Trung Quốc có các hoạt động chống lại chủ quyền quốc gia của chúng tôi”.
Ông cũng cho biết: “Lực lượng vũ trang Philippines (AFP) đã cải thiện khả năng nhận dạng, phát hiện và can thiệp thông qua các radar giám sát phòng không mới được lắp đặt của chúng tôi, đồng thời cũng cải thiện các cuộc tuần tra trên không và trên biển rộng lớn hơn, thiết lập thêm các toán biệt kích tại các địa điểm chiến lược”.
Các bên có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Brunei, Malaysia, Đài Loan.
Tháng trước, quân đội Philippines đã lắp đặt một đoạn đường nối và một cảng có mái che cho ngư dân Philippines trên một hòn đảo ở Trường Sa mà Việt Nam gọi là Thị Tứ, còn Philippines gọi là Pag-asa. Manila có kế hoạch chi 26 triệu USD để xây dựng thêm các công trình trên đảo Thị Tứ.
Hòn đảo này là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Vào những năm 1970-1971, Philippines đã cho quân bí mật chiếm một số đảo ở Trường Sa, trong đó có đảo Thị Tứ.

Trung Quốc đối đầu với các tàu chiến Úc ở Biển Đông

Minh Hòa
Hải quân Trung Quốc đã đối đầu với các tàu chiến Úc ở Biển Đông trong một chuyến đi mà các tàu Úc tiến gần các hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông, theo hãng Truyền thông Quốc gia Australia (ABC).
Hãng tin này cho biết, một nhóm đặc nhiệm chung của Lực lượng Quốc phòng Australia gồm 5 tàu ​​chiến tuần trước đã đi qua Biển Đông và tiến gần quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp.
Các tàu chiến Úc đã không tiến vào phạm vi 12 hải lý của các hòn đảo tranh chấp, không như các tàu chiến Mỹ từng tiếp cận vào phạm vi này để tiến hành các hoạt động tự do hàng hải, thách thức yêu sách của Bắc Kinh.
Hiện không rõ chính xác vị trí mà quân đội Trung Quốc đối đầu với nhóm tàu Úc, nhưng Bộ Quốc phòng xứ sở chuột túi xác nhận rằng tuần trước nhóm tàu này đã đi gần các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Bộ Quốc phòng Úc tuyên bố: “Tất cả các tương tác ngoài kế hoạch với các tàu chiến nước ngoài trong khi triển khai hành trình này đều được tiến hành một cách an toàn và chuyên nghiệp”.
ABC trích lời một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Úc cho biết: “Australia cam kết đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương an toàn, cởi mở, thịnh vượng và kiên cường. Chúng tôi thường xuyên làm việc với các đối tác trong khu vực để giải quyết các thách thức an ninh chung”.
Nhóm tàu Úc do tàu HMAS Canberra dẫn đầu, đang tiến đến Biển Philippines để tham gia các cuộc diễn tập với hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản. Sau đó các tàu này, gồm HMAS Canberra, HMAS Hobart, HMAS Stuart, HMAS Arunta và HMAS Sirius, sẽ tới Hawaii của Mỹ để tham gia cuộc tập trận quốc tế quy mô lớn RIMPAC.
Năm ngoái, Hải quân Hoàng gia Úc đã bị quân đội Trung Quốc theo sát trong quá trình vận chuyển tương tự ở Biển Đông.

Mỹ sẽ có hành động gì ở Biển Đông

sau tuyên bố phản bác các yêu sách của Trung Quốc?

Hoàng Ban Mai
Lập trường mới của Mỹ về biển Đông là gì?
Ngày 13/7, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã đề cập đến một thay đổi quan trọng trong tuyên bố chính sách của Mỹ về biển Biển Đông. Trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell đã làm rõ hơn nữa điều này tại Hội thảo biển Đông thường niên lần thứ 10 hôm 14/7. Sự thay đổi chính sách nêu trên là nhằm điều chỉnh lập trường của Mỹ sao cho phù hợp với phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016, trong đó cho rằng cơ sở của các yêu sách của Trung Quốc đối với quyền lợi biển tại biển Đông không được luật pháp quốc tế, mà cụ thể là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), thừa nhận. Vào thời điểm đó, phán quyết này được coi là một chiến thắng lớn của Philippines, nước đã đệ trình vụ việc lên Tòa trọng tài. Tuy nhiên, các chính phủ trong khu vực và Mỹ đã không tận dụng được phán quyết này.
Tuyên bố của Pompeo đã liệt kê những tuyên bố cụ thể về các yêu sách trên biển do Trung Quốc đưa ra mà Mỹ coi là bất hợp pháp. Tuyên bố đánh dấu một sự cụ thể hóa đáng kể các lập trường trước đây của Mỹ, chứ không hoàn toàn tách biệt khỏi chính sách trước đây. Tuyên bố này làm rõ những ngụ ý của các Chính quyền Mỹ trước đây. Qua đó, tuyên bố mở đường cho việc truyền đạt hiệu quả hơn các thông điệp ngoại giao và những phản ứng mạnh mẽ hơn trước hành động quấy rối của Trung Quốc đối với các nước láng giềng. Các đối tác và đồng minh của Mỹ trong khu vực dường như đã được thông báo trước – chẳng hạn, chỉ trong vài giờ sau, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đã đưa ra tuyên bố ủng hộ. Chính sách mới cũng làm dấy lên tâm trạng phấn khích, cùng với đó thường là những sự cường điệu, trên báo chí và các phương tiện truyền thông xã hội.
Tuyên bố của Pompeo không làm thay đổi thái độ trung lập của Mỹ đối với các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông. Washington vẫn không muốn sa vào bãi lầy lịch sử xung quanh việc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của quốc gia nào. Tuy nhiên, giờ đây họ đã xác định rõ ràng lập trường về các tranh chấp hàng hải về các quyền đối với biển và đáy biển. Đoạn mở đầu của tuyên bố có viết: “Chúng tôi nói rõ: Những yêu sách biển của Bắc Kinh đối với các nguồn tài nguyên biển khơi trên hầu hết diện tích biển Đông, cũng như chiến dịch bắt nạt của họ nhằm kiểm soát các nguồn tài nguyên này, là hoàn toàn phi pháp”. Phần còn lại của tuyên bố giải thích ý nghĩa chính xác của điều đó.
Mỹ đã thể hiện sự ủng hộ kiên định hơn đối với nội dung cơ bản của phán quyết năm 2016 do tòa trọng tài đưa ra theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết nghiêng nhiều về Manila trong vụ khiếu nại nhằm vào Bắc Kinh. Bằng việc ủng hộ phán quyết của Tòa trọng tài, Mỹ giờ đây tuyên bố rõ rằng các yêu sách của Trung Quốc đối với vùng biển xung quanh các cấu trúc địa chất ở Trường Sa là bất hợp pháp. Tương tự, các yêu sách của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia khác cũng là bất hợp pháp. Điều này có ý nghĩa to lớn ở chỗ nó thể hiện sự ủng hộ to lớn về ngoại giao đối với các nước Đông Nam Á trong việc khẳng định các quyền chủ quyền đối với các vùng biển của chính họ. Việc Trung Quốc khăng khăng đòi chủ quyền đối với các vùng biển ở ngoài khơi quần đảo Natuna và bãi Tư Chính đã gây đối đầu căng thẳng với Indonesia và Việt Nam trong năm qua, đồng thời làm xáo trộn các nỗ lực khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tiềm tàng của các nước ASEAN bên trong các đường biên giới trên biển của họ.
Tuy nhiên, sự thay đổi chính sách của Mỹ không nêu lên lập trường dứt khoát về việc bên nào là nước sở hữu hợp pháp các đá và rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa. Những thực thể cụ thể mà Mỹ thể hiện quan điểm là đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây và bãi ngầm James. Đây là các thực thể chìm, chỉ có thể nhìn thấy khi thủy triều thấp và không thể tạo ra các vùng đặc quyền kinh tế hoặc bất kỳ quyền lợi biển nào theo phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016. Lập trường mới của Mỹ theo sát kết luận hợp lý của phán quyết này. Trung Quốc đã lập lờ tuyên bố EEZ và vùng thềm lục địa tính từ bờ biển phía Nam nước này, và có lẽ là ở các khu vực tương tự được xác định dựa trên quần đảo Hoàng Sa, vốn không nằm trong phán quyết năm 2016. Họ cũng có thể đưa ra các yêu sách về quyền trong phạm vi 12 hải lý tính từ các đá ở quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough (và các bên khác cũng có thể đưa ra yêu sách như vậy). Tuy nhiên, Trung Quốc không thể đưa ra yêu sách về bất kỳ khu vực nào khác. Do đó, hầu hết các nguồn tài nguyên ở biển Nam Trung Hoa thuộc về các nước ven biển gần nhất (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines hoặc Việt Nam). Giờ đây, Mỹ tuyên bố rõ ràng rằng Trung Quốc sẽ vi phạm pháp luật nếu tiến hành đánh bắt cá, thăm dò dầu khí hay các hoạt động kinh tế khác ở các vùng biển đó, hoặc cản trở các nước láng giềng của họ thực thi các quyền này.
Phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 cũng cho rằng một vài cấu trúc địa hình mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, chẳng hạn như đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây và bãi Cỏ Rong, có đặc điểm tự nhiên là nằm dưới mặt nước và do đó không phải là đối tượng của bất kỳ tuyên bố chủ quyền nào. Tòa đưa ra phán quyết rằng tất cả các cấu trúc địa chất này đều thuộc vùng thềm lục địa của Philippines, với tư cách nước ven biển gần nhất, và Manila có độc quyền đối với các nguồn tài nguyên ở đây. Chính sách mới của Mỹ ủng hộ rõ ràng điều này và áp dụng nó cho các cấu trúc địa chất khác mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, bao gồm: các bãi cạn Luconia và James ngoài khơi Malaysia và bãi Tư Chính ngoài khơi Việt Nam. Điều này có nghĩa là Mỹ coi toàn bộ căn cứ của Trung Quốc trên đá Vành Khăn là bất hợp pháp. Mỹ cũng coi các nỗ lực của Trung Quốc nhằm khẳng định chủ quyền đối với các cấu trúc này là vô căn cứ.
Cuối cùng, tuyên bố của Pompeo coi việc Trung Quốc cản trở Philippines thực hiện quyền đánh bắt cá ở bãi cạn Scarborough là phi pháp. Mặc dù có thể dựa trên cấu trúc địa chất này để xác định phạm vi lãnh hải 12 hải lý, nhưng phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 đã tuyên bố rằng cả Trung Quốc lẫn Philippines đều có quyền đánh cá theo truyền thống trong phạm vi bãi cạn này. Vậy là một lần nữa, Mỹ không thay đổi lập trường về chủ quyền lãnh thổ, mà đang xác định rõ ràng hơn lập trường của họ về các quyền trên biển.
Nói tóm lại, đây là một sự thay đổi có trọng tâm rất nhỏ trong quan điểm của Mỹ và không đề cập đến tất cả các nội dung trong phán quyết PCA năm 2016.
Hoạt động phối hợp nhằm đẩy lùi các yêu sách của Trung Quốc
Tuy nhiên, sự thay đổi chính sách này – dù chỉ trong tuyên bố – không phải là không có ý nghĩa. Việc Bộ trưởng Quốc phòng Philippines nhanh chóng bày tỏ sự ủng hộ đối với lập trường mới của Mỹ cho thấy có sự phối hợp trong động thái này. Có lý do để tin rằng chính sách mới của Mỹ đối với biển Đông là một phần trong nỗ lực phối hợp nhằm đứng về phía các nước Đông Nam Á có liên quan vốn đang từng bước tiến tới một lập trường chung chống lại các yêu sách biển quá đáng của Trung Quốc tại vùng biển này.
Hãy xem xét cách mà Mỹ đã làm trước khi ra thông báo này qua việc gửi công hàm lên Liên hợp quốc vào đầu tháng 6 – tín hiệu cụ thể đầu tiên cho thấy Mỹ đang đánh giá lại lập trường của mình về biển Đông. Công hàm này đề cập cụ thể tới phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài nhằm phản đối các yêu sách của Trung Quốc và lặp lại ngôn từ được Ngoại trưởng Pompeo sử dụng hôm 13/7.
Cần nhắc lại rằng công hàm ngoại giao của Mỹ trên thực tế là một phần trong hàng loạt công hàm được các nước khác gửi lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS) trong năm qua. Khởi đầu là một yêu sách dường như không có gì đặc biệt của Malaysia vào tháng 12/2019 về thềm lục địa mở rộng, những nỗ lực này đã gây ra phản ứng từ phía Trung Quốc, khiến nước này nhắc lại các yêu sách quá mức đối với biển Đông và làm rõ rằng họ sẽ không dịu giọng hoặc lặng lẽ rút lại các yêu sách, dù có vẻ bất hợp lý của mình đối với biển Đông.
Việc Malaysia đệ trình yêu sách giữa lúc Trung Quốc và ASEAN đang đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử (COC) ở biển Đông nhiều khả năng không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Trung Quốc nổi tiếng là mơ hồ khi đề cập đến những khái niệm như “quyền lịch sử”, hay thậm chí là phạm vi của “đường 9 đoạn” và các ranh giới ở biển Đông. Tất cả những điểm mơ hồ này sẽ xuất hiện trong các cuộc đàm phán COC và bằng cách đệ trình yêu sách của mình, Malaysia buộc Trung Quốc phải tuyên bố dứt khoát về các yêu sách của mình cũng như cơ sở của chúng trong một diễn đàn ngoại giao mở.
Đương nhiên, các nước ASEAN không hài lòng về việc Trung Quốc vẫn tiếp tục khăng khăng đòi hỏi chủ quyền đối với gần như toàn bộ biển Đông dựa trên các căn cứ không có cơ sở pháp lý như “quyền lịch sử”, cũng như việc Bắc Kinh từ chối nhân nhượng bất chấp các cuộc đàm phán đa phương. Các công hàm sau đó của Philippines, Việt Nam và Indonesia đã bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc, song quan trọng hơn là những công hàm này đều viện dẫn phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 và có ngôn từ gần giống nhau một cách kỳ lạ. Ngay cả Việt Nam – dù thận trọng không nêu cụ thể phán quyết của Tòa trọng tài – cũng đã đề cập một cách rõ ràng và dứt khoát về một phần phán quyết của Tòa trọng tài, theo đó bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc đối với các cấu trúc địa hình lúc nổi lúc chìm.
Không rõ liệu giữa các nước ASEAN có nỗ lực phối hợp hay không khi gửi công hàm tới Liên hợp quốc. Nhưng những động thái này rõ ràng có vẻ là một cuộc phản công phối hợp chống lại Trung Quốc trong bối cảnh các cuộc đàm phán COC, song nhiều khả năng mỗi quốc gia đã nhận được thông điệp ngoại giao từ những nước láng giềng có chung chí hướng và điều chỉnh cách tiếp cận riêng một cách phù hợp. Được đưa ra trong bối cảnh đó, công hàm của Mỹ đã lặp lại những gì Philippines, Việt Nam và Indonesia đã nêu.
Liệu Mỹ sẽ có các động thái gì tiếp theo?
Chính sách mới của Mỹ cần được coi là một phần trong nỗ lực phối hợp giữa nhiều chính phủ nhằm đẩy lùi các yêu sách của Trung Quốc với các cách tiếp cận ngoại giao và lập luận tương tự nhau, cụ thể là nhấn mạnh UNCLOS và phán quyết năm 2016. Điều này rất có ý nghĩa nếu người ta tin rằng chủ nghĩa đa phương, hay một “mặt trận thống nhất”, là cách duy nhất để chống lại các hành vi ép buộc của Trung Quốc ở biển Đông. Tương tự, đây có thể được coi là bước đi đầu tiên nhằm tái khẳng định “trật tự dựa trên các quy tắc” ở Đông Nam Á và rộng hơn là Đông Á – nơi mà khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” thiếu bối cảnh địa phương và là nơi mà Mỹ đang cố đuổi kịp Trung Quốc về ảnh hưởng chính trị và kinh tế.
Nếu xem xét theo hướng này, lập trường mới của Mỹ về biển Đông là một bước đi đúng hướng, song vẫn là một bước đi nhỏ. Dù cần thêm thời gian để xem Mỹ sẽ tiếp tục hành động như thế nào, nhưng chúng ta cũng có thể đưa ra một vài dự đoán về chính sách có thể được thực thi trong tương lai.
Một là, Mỹ đang ám chỉ rằng họ sẽ bắt đầu xem xét việc trừng phạt các doanh nghiệp nhà nước (SOE) của Trung Quốc có liên quan đến việc xây dựng các đảo nhân tạo làm hủy hoại môi trường tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trong bài phát biểu hôm 14/7, Trợ lý Ngoại trưởng Stilwell thậm chí đã nêu tên một công ty cụ thể – đó là Công ty xây dựng truyền thông Trung Quốc (CCCC). Các biện pháp trừng phạt có thể cũng sẽ được áp đặt đối với các SOE do Trung Quốc triển khai nhằm mục đích khẳng định các yêu sách của mình và gây áp lực lên các nước có yêu sách khác, buộc họ phải từ bỏ các quyền tài nguyên. Tập đoàn dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) – từng triển khai giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 2014 – chắc chắn đã được tính đến.
Hai là, Mỹ đang chú ý sát sao hơn tới các nỗ lực gây ảnh hưởng của Trung Quốc tại các diễn đàn quốc tế như Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế (ISA) và Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS). ITLOS là cơ quan tư pháp độc lập có chức năng giải quyết các vụ việc pháp lý liên quan đến UNCLOS, tương tự như Tòa trọng tài năm 2016 từng phân xử tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc. Đây là cơ quan có thể coi là đóng vai trò bảo vệ hệ thống tài liệu pháp lý mà Mỹ có thể dựa vào nhằm chống lại các yêu sách của Trung Quốc trong tương lai. Tuy nhiên, trong số các thẩm phán của ITLOS trong nhiệm kỳ tới lại có một ứng cử viên Trung Quốc gây tranh cãi. Mỹ có thể sẽ gây áp lực buộc các quốc gia thành viên không bỏ phiếu cho ứng cử viên Trung Quốc – một điều hợp lý bởi Trung Quốc trắng trợn coi thường UNCLOS và luật pháp quốc tế nói chung. Tuy nhiên, Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này, chủ yếu do nước này chưa phê chuẩn UNCLOS và có ít đòn bẩy để tác động đến kết quả bỏ phiếu bầu các thẩm phán.
Cuối cùng, Mỹ có thể tăng cường sự ủng hộ đối với quyền của các nước Đông Nam Á trong việc khai thác nguồn tài nguyên biển, xác định rằng phát triển nền kinh tế biển và sinh kế của các cộng đồng ven biển có vai trò trung tâm đối với sự gắn kết và độc lập của khu vực trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chúng ta đã chứng kiến Mỹ triển khai tàu chiến gần các tàu khảo sát của Trung Quốc khi các tàu này xâm nhập vùng biển Việt Nam và Malaysia. Các cuộc tuần tra này rất có khả năng sẽ được tiếp tục với tần suất cao hơn cho tới khi các nước Đông Nam Á thoải mái thăm dò dầu khí hoặc triển khai các đội tàu cá mà không phải lo sợ chiến dịch gây áp lực của Trung Quốc. Từ lâu đã xuất hiện những tin đồn về việc lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ duy trì sự hiện diện hoặc tiến hành các cuộc tuần tra chung tại Đông Nam Á. Tuy nhiên, những điều này vẫn chưa thành hiện thực. Vì thế, đây là điều mà nhiều người mong đợi cho tương lai.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Biển Đông: Mỹ hỗ trợ ngư dân Việt Nam

chống lại ‘‘các đe dọa bất hợp pháp’’

Trọng Thành
Washington tiếp tục có các hành động cụ thể để hỗ trợ các quốc gia ASEAN kháng cự hoạt động gây hấn trên biển của Trung Quốc. Hôm qua, 22/07/2020, Mỹ và Việt Nam ký kết thỏa thuận « tăng cường thực thi pháp luật về thủy sản », mà một trong các nội dung chính là « hỗ trợ ngư dân trước các đe dọa bất hợp pháp trên biển ».
Theo Vietnamnet, cơ quan truyền thông của bộ Thông Tin và Truyền thông Việt Nam, cục Phòng chống ma tuý và thực thi pháp luật quốc tế (INL) thuộc bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tổng cục Thủy sản Việt Nam đã ký kết biên bản ghi nhớ về « tăng cường năng lực thực thi pháp luật về thuỷ sản và quản lý nghề cá ». Đại diện ký kết phía Việt Nam là tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Trần Đình Luân, về phía Mỹ là đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel J. Kritenbrink.
Thỏa thuận « tăng cường năng lực thực thi pháp luật thủy sản và quản lý nghề cá » được hy vọng là sẽ thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác giữa Việt Nam, Hoa Kỳ và các cơ quan thực thi pháp luật quốc tế nhằm đảm bảo duy trì bền vững nguồn lợi sinh vật biển, đấu tranh phòng chống đánh bắt cá bất hợp pháp.
Phát biểu tại buổi lễ, đại sứ Mỹ tại Việt Nam cho biết: « Hoa Kỳ có bề dày kinh nghiệm trong việc quản lý và thực thi pháp luật thủy sản và sẵn sàng chia sẻ. Chúng tôi mong muốn hợp tác cùng Việt Nam nhằm phát triển nghề cá một cách bền vững và hỗ trợ ngư dân Việt Nam trước những đe dọa bất hợp pháp trên biển”.
Cơ quan thực thi pháp luật quốc tế (INL), thuộc bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, dự kiến đầu năm tới sẽ bàn giao cho cục Kiểm Ngư Việt Nam một trung tâm huấn luyện tại Phú Quốc. Trung tâm có mục tiêu nâng cao năng lực thực thi pháp luật của lực lượng kiểm ngư địa phương tại 28 tỉnh duyên hải của Việt Nam.
Việc Washington hỗ trợ ngành kiểm ngư Việt Nam trong các hoạt động bảo vệ quyền lợi phù hợp với luật pháp quốc tế của Việt Nam tại Biển Đông diễn ra chỉ ít ngày sau khi bộ Ngoại Giao Mỹ ra tuyên bố « Lập trường của Hoa Kỳ về các yêu sách biển tại Biển Đông », ngày 14/07/2020. Tuyên bố bác bỏ hầu hết các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, bị xem là đi ngược lại luật pháp quốc tế tại vùng biển này, đặc biệt là việc Trung Quốc dùng vũ lực để dọa nạt, cưỡng bức và uy hiếp các quốc gia khác trong vùng trong các hoạt động « đánh bắt cá hay khai thác dầu khí » hợp pháp.
Philippines lắp đặt ra-đa để kiểm soát hoạt động của tàu Trung Quốc
Các hoạt động lấn lướt của Trung Quốc tại Biển Đông cũng là mối lo ngại lớn của ngư dân Philippines. Theo trang mạng abs-cbn của Úc, bộ trưởng Quốc Phòng Philippines Delfin Lorenzana, hôm qua cho biết nước này đã triển khai một hệ thống ra-đa tại  nhiều khu vực ở biển Tây Philippines (Biển Đông) để theo dõi sát các hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc.
Theo bộ trưởng Quốc Phòng Philippines, « trước các hành động gây hấn diễn ra liên tục của các tầu quân sự và dân sự Trung Quốc, Manila đã có nhiều biện pháp ngoại giao để phản đối Bắc Kinh về các hoạt động xâm phạm chủ quyền quốc gia ».

Dầu khí – Biển Đông: Áp lực Bắc Kinh

khiến Hà Nội mất 1 tỉ đô la

Trọng Thành
Áp lực của Bắc Kinh tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông buộc Hà Nội phải hủy nhiều hợp đồng khai thác dầu khí với các tập đoàn nước ngoài. Chuyên gia về Biển Đông Bill Hayton, trên trang mạng The Diplomat, hôm qua 22/07/2020, cho biết Việt Nam có thể đã phải trả khoảng 1 tỉ đô la đền bù cho hai công ty Tây Ban Nha và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất.
Một nguồn tin gần gũi với hồ sơ này, trong ngành dầu mỏ Việt Nam, xác nhận với báo mạng Nhật Bản The Diplomat là tập đoàn dầu khí Việt Nam PetroVietnam sẽ phải hoàn tiền cho tập đoàn Tây Ban Nha Repsol và tập đoàn Mubadala của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, theo các thỏa thuận « chấm dứt » và « bồi thường ». Theo nhà nghiên cứu Anh Bill Hayton, phát ngôn viên của tập đoàn Repsol « không muốn xác nhận hay phủ nhận » thông tin về số tiền nói trên, nhưng việc phân tích báo cáo tài chính của công ty cho thấy có « một khoản tiền rất lớn » có thể liên quan đến việc bồi hoàn này.
Tháng Bảy năm 2017, tập đoàn Repsol, đối tác của PetroVietnam, đã ra lệnh hủy khoan thăm dò theo kế hoạch ở lô 135-136/03. Tiếp theo đó, vào tháng 8/2018 Repsol đã được lệnh dừng khoan lô 07/03 gần đó (một dự án nằm trong khu vực « Cá Rồng Đỏ »). Theo chuyên gia Bill Hayton, Repsol đấu thầu thăm dò tại 13 lô dầu khí của Việt Nam, mà hai trong số những dự án đó nằm ở rìa ngoài của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, và lọt hẳn trong đường 9 đoạn, hay đường lưỡi bò mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Trong khoảng thời gian này, Bắc Kinh đã điều một đội tàu chiến gồm 40 chiếc đến vùng ngoài khơi đảo Hải Nam, cách địa điểm các giàn khoan khoảng hai ngày di chuyển, một dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực, nếu hoạt động thăm dò tiếp diễn.
Cuối tháng 6/2020, trang mạng thoibao.de tại Đức dẫn một nguồn tin tại Việt Nam tiết lộ, do buộc phải ngừng thăm dò tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo kế hoạch, tập đoàn Repsol đã đòi chính quyền Việt Nam « bồi thường gần 1 tỷ 400 triệu đô la », nhưng « sau nhiều cuộc đàm phán với Tập Đoàn Dầu Khí PetroVietnam, mức đền bù giảm xuống còn 1 tỷ 200 triệu đô la, và PetroVietnam phải trả trong 3 năm ».
Bắc Kinh không ngừng gây áp lực với Hà Nội, cho dù hai tập đoàn Tây Ban Nha và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đã rút lui. Theo nhóm thông tin « South China Sea News », căn cứ trên dữ liệu của tổ chức thông tin hàng hải quốc tế Maritime Traffic, đầu tháng 7/2020, trong thời gian Trung Quốc tập trận hải quân tại quần đảo Hoàng Sa, một tàu hải cảnh của Trung Quốc (tầu 5402) đã đến sát dàn khoan mỏ Lan Tây, tại lô 6.1, phía đông nam tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khoảng 370 km (bãi Tư Chính). Đây là dàn khoan của công ty Nga Rosneft « vốn đã hoạt động tại đây suốt nhiều năm qua trong dự án khai thác khí Nam Côn Sơn trên Biển Đông ».

Một kế sách triệt để nhằm

ngăn Trung Quốc nuốt trọn Biển Đông

Mai Vân
Trong những ngày gần đây, Trung Quốc càng lúc càng có thêm nhiều hành động nhằm áp đặt quyền kiểm soát trên Biển Đông, từ việc triển khai chiến đấu cơ trên đảo Phú Lâm, liên tiếp tập trận ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, lần gần đây nhất là từ ngày 15-17/07/2020, đến việc phái tàu khảo sát xuống Trường Sa, và liên tục cho tầu hải cảnh đến sách nhiễu các mỏ dầu khí của Việt Nam.
Cụ thể là vụ chiếc Hải Cảnh 5402 hoành hành gần mỏ Lan Tây và Lan Đỏ của Việt Nam ngoài khơi bờ biển phía nam Việt Nam trong những ngày 12, 15 và 18/07.
Trong bài viết “Làm sao để ngăn chặn Trung Quốc hoàn tất việc chiếm cứ Biển Đông – How to stop China completing its takeover of the South China Sea” đăng trên website của Viện Chính Sách Chiến Lược Úc (ASPI) ngày 21/07/2020, nhà nghiên cứu Jeff Becker cho rằng trước việc Trung Quốc rõ ràng là đang đẩy mạnh chiến dịch nuốt trọn Biển Đông, các nước có lợi ích trong việc duy trì một vùng Biển Đông thông thoáng cần phải có biện pháp triệt để hơn để ngăn không cho Trung Quốc hoàn tất mưu đồ của họ.
Tiền đồn ở Biển Đông: Bàn đạp để đòi chủ quyền toàn vùng
Bài viết trước hết nêu bật nguy cơ đến từ các tiền đồn quân sự mà Trung Quốc đã xây dựng trên các thực thể mà họ đã chiếm đóng tại vùng Biển Đông.
Theo Jeff Becker, việc Bắc Kinh quân sự hóa các đảo đá trong tay họ ở Hoàng Sa và Trường Sa đã giúp Trung Quốc gia tăng đáng kể khả năng khống chế các thực thể khác ở Biển Đông, mà còn cho phép Bắc Kinh áp đặt trong tương lai quyền kiểm soát toàn bộ vùng biển và bầu trời bên trên. Cho đến nay, Trung Quốc luôn lớn tiếng phản đối việc các nước khác thực hiện quyền đi lại vô hại hay có những hoạt động quân sự khác bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Trên bình diện ngoại giao, Bắc Kinh ra sức áp đặt nguyên tắc đàm phán song phương với từng quốc gia tranh chấp, qua đó phá vỡ trong thực tế nỗ lực của khối ASEAN trong việc tìm kiếm đối sách chung.
Bất chấp phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye bác bỏ tính chất hợp pháp của yêu sách chủ quyền “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc, chiến lược của Bắc Kinh là xây dựng lực lượng và cơ sở trong vùng để trong dài hạn có thể áp đặt quyền chủ quyền trên cả Biển Đông.
Tham vọng quá lớn của Trung Quốc đe dọa toàn thế giới
Đối với tác giả bài viết, các yêu sách của Trung Quốc tác động đến cả những quốc gia ngoài vùng Biển Đông. Mỹ, Úc, Nhật Bản, Ấn Độ cùng nhiều nước khác có quyền lợi thiết yếu trong việc sử dụng vùng biển này cho những mục tiêu kinh tế, khoa học cũng như quân sự của mình. Khẩn cấp hơn nữa là phải duy trì được các quyền tự do di chuyển trên vùng biển khơi và trong tương lai, trên không trung.
Tham vọng chủ quyền nói trên của Trung Quốc mang một quy mô to lớn chưa từng thấy ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, cũng như chưa từng thấy trong luật pháp quốc tế. Đây chính là một kịch bản tồi tệ mà giới hoạch định kế hoạch quân sự và chiến lược thế giới phải tránh không cho xẩy ra.
Theo nhà nghiên cứu Jeff Becker, không làm gì là đồng nghĩa với việc nhường cho Trung Quốc quyền kiểm soát thường xuyên các hoạt động kinh tế, quân sự trên một vùng đại dương rộng lớn có tính then chốt và chiến lược.
Biển Đông rộng hơn Địa Trung Hải đến 1/3, và lớn hơn gấp đôi Vịnh Mêhicô. Công nhận đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc trên một vùng rộng lớn như thế sẽ làm tăng nguy cơ những vùng biển chung rộng lớn của quốc tế bị những nước riêng lẻ chiếm dụng và kiểm soát.
Cộng đồng quốc tế phải chọn lựa giữa việc duy trì những vùng biển chung tự do, rộng mở, và bảo vệ luật quốc tế hoặc là để yên cho Trung Quốc chiếm đoạt Biển Đông, với nguy cơ dẫn đến những đòi hỏi tương tự trên tất cả các đại dương của thế giới. Để ngăn chận viễn cảnh đó, cần phải tâp hợp càng nhiều quốc gia càng tốt để có phản ứng cứng rắn, mạnh bạo ngăn cản Trung Quốc.
Phải cấm Trung Quốc sử dụng vùng EEZ của nước khác
Về biện pháp cụ thể, nhà nghiên cứu Jeff Beck cho rằng Hoa Kỳ cùng với các tất cả các đồng minh và đối tác phải công khai gắn liền việc Trung Quốc sử dụng vùng biển chung của thế giới với cách hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Washington đã tuyên bố rằng các đòi hỏi của Bắc Kinh về Biển Đông là bất hợp pháp, và đã nhấn mạnh tuyên bố này bằng cách phái hai tàu sân bay và nhóm tàu hộ tống vào thao diễn trong khu vực.
Đây là một bước đầu tốt, nhưng Trung Quốc lại có lợi thế hiện trường ở Biển Đông, vì thế Hoa Kỳ và tất cả các đồng minh, đối tác trong cộng đồng quốc tế phải bắt đầu thực hiên biện pháp tăng cường các hạn chế về hành chánh và kỹ thuật đối với sản phẩm mà Trung Quốc vận chuyển trên biển, trên không, quá cảnh qua những vùng đặc quyền kinh tế của các nước tham gia hành động chung.
Việc giới hạn quyền quá cảnh kinh tế, quân sự và thăm dò khoa học phải được lên kế hoạch trước và dễ điều chỉnh để có thể tương xứng với hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Một khi quốc tế làm được như vậy, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn không ít, sẽ thấy được cái giá cực cao, những khó khăn phức tạp để tiếp cận vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương và những nơi khác.
Cộng đồng quốc tế phải mạnh dạn đối phó với Trung Quốc
Một ví dụ: Nếu Nhật Bản và Philippines cùng với Hoa Kỳ áp dụng biện pháp hạn chế tiếp cận, thì Trung Quốc không thể có đường ra thẳng Tây Thái Bình Dương. Biện pháp này nên được thông báo cho Trung Quốc, nếu Bắc Kinh dùng sức mạnh áp đặt chủ quyền và quyền kiểm soát ở Biển Đông.
Tuy nhiên, đối với chuyên gia Jeff Beck, việc bảo đảm ở mức độ cao nhất quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của thế giới phải là mục tiêu tối hậu của nỗ lực quốc tế này.
Việc giới hạn quyền của Trung Quốc đi qua các vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác phải đi kèm theo việc bảo đảm là các vùng này vẫn được mở cho các quốc gia tham gia chiến dịch đáp trả. Hơn nữa những biện pháp đối với Trung Quốc sẽ phải uyển chuyển, có thể bỏ đi dễ dàng khi Trung Quốc xét lại hành động của mình ở Biển Đông,
Cho dù chiến lược đáp trả ý đồ hung hăng nhất của Trung Quốc ở Biển Đông như vừa kể có vẻ rất mạnh bạo, các quốc gia cùng ý chí trên thế giới nên sẵn sàng gây cú sốc, buộc Trung Quốc phải cân nhắc lợi hại trước việc giới hạn quyền tự do hàng hải ở Biển Đông và việc tự do sử dụng vùng biển chung của thế giới.

0 comments

Leave a comment

Powered by Blogger.