Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Biển Đông: Mỹ phản đối Trung Quốc là động thái ‘dọn đường’

Thursday, June 4, 2020 1:38:00 PM // ,

BBC
4 tháng 6 2020

Tổng thống Mỹ Donald Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo ngày 29/5 Bản quyền hình ảnh EPA
Image caption Tổng thống Mỹ Donald Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo ngày 29/5
Tình hình bang giao quốc tế và an ninh Biển Đông và khu vực Đông Nam Á đang bất ngờ sôi động với các động thái chính trị, ngoại giao liên tiếp từ các nước như Mỹ, Indonesia phản đối Trung Quốc và kể cả phản ứng đáp lại được cho là khá 'gay gắt' của Trung Quốc.
Trải lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt hôm 04/6/2020, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng từ Đại học George Mason, Hoa Kỳ; Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia, nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Maine đặt vấn đề về việc liệu Mỹ gửi công hàm phản đối Trung Quốc về Biển Đông lên LHQ có phải là để 'dọn đường' pháp lý, chính trị đưa ra Hội đồng Bảo an.
Trước tiên, ông Nguyễn Mạnh Hùng, trên quan điểm riêng của mình, bình luận về việc ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo hôm 3/6/2020 thông báo nước này đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối các yêu sách được cho là "phi pháp và nguy hiểm" của Trung Quốc trên Biển Đông.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Công hàm của Hoa Kỳ gửi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc mục đích là ủng hô lập trường của Malaysia gửi cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa ngày 12/12/2019 bác kháng thư của Trung Quốc ngày 12/12/2019, và phản đối các yêu sách của Trung Quốc "không phù hơp vơi Luật về Công Ươc Biển năm 1982."
Công hàm này gửi sau công hàm của Việt Nam gần một tháng, có nôi dung tương tự (trừ việc công hàm của Việt Nam còn viện dẫn thêm công hàm của Trung Quốc ngày 23/3/2020) và cùng yêu cầu Tồng Thư Ký LHQ lưu hành đến "tất cà các thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Công hàm do Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình ngày 01/6/2020 là phản đối hết tất cả các đòi hỏi phi pháp và quá đáng trong công hàm mà Trung Quốc đã gởi đến LHQ ngày 12/12/2019.
Mỹ đã đợi đến 6 tháng sau mới gởi công hàm trên là vì muốn chờ cho các nước trong khu vực (trong đó có Việt Nam, Phillipines, và Indonesia) gởi các công hàm phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc trước đã.
Do đó, ý nghĩa chính yếu và nổi bật nhất là Mỹ ủng hộ các nước trong khu vực bảo vệ luật pháp quốc tế, trong đó có Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Phán quyết của Toà Trọng Tài tháng 7 năm 2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Vịnh Hạ Long ngày 31/5 Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Vịnh Hạ Long ngày 31/5

Vì sao gay gắt?

BBC: Trung Quốc hầu như đã ngay lập tức có phản ứng với việc người phát ngôn Bộ Ngoại giao của nước này cùng ngày 3/6 đáp lại rằng Mỹ "gây rối và phá vỡ mối quan hệ trong khu vực". Vì sao Trung Quốc có phản ứng như vậy?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Đây không phải là việc gì mới. Trung Quốc đã nói thế từ năm 2008 và đặc biệt gay gắt từ năm 2010 là vì Trung Quốc muốn chĩa mũi dùi vào Mỹ cho rằng sự lên tiếng, hay can thiệp, của Mỹ đã gây rối và làm mất ổn định trong khu vực.
Trung Quốc muốn chứng tỏ Mỹ là một đế quốc ở bên kia thế giới nhưng xía vào tranh chấp trong khu vực Biển Đông để thủ lợi. Lý do là nếu Mỹ chùn chân trong việc giúp bảo vệ luật pháp quốc tế và an ninh trong khu vực thì Trung Quốc sẽ có thể uy hiếp các nước trong khu vực Biển Đông cũng như các nước khác giao thông qua khu vực này.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Gần đây quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng thêm một phần vì Trung Quốc lơi dụng thời cơ nhiều nước phải tập trung đối phó với đại dịch Covid-19 để tìm cách lấn lướt ở Biển Đông.
Một phần vì hai nước Hoa Kỳ và Trung Quốc đang đổ tội lẫn nhau vì vụ Covid-19, môt phần khác vì nhu cầu chính trị nội bô của cả hai nước, ông Trump thì phải lo chuyên tranh cử còn ông Tập phải đánh lạc hướng những chỉ trích vì cách hành xử trong đại nạn dịch Covid-19 và biểu tình ở Hong Kong.
Trong bối cảnh ấy, viêc hai bên trả đũa nhau ngay lập tức là chuyện dễ hiểu.
BBC:Chính quyền Philippines đã tuyên bố tạm dừng hủy thỏa thuận quân sự với Mỹ, qua việc Đại sứ Philippines tại Hoa Kỳ, Jose Manuel Romualdez hôm 3/6 khẳng định nước này quyết định tạm không hủy Thỏa thuận lực lượng thăm viếng (VFA), sự kiện này có ý nghĩa gì?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Ngay khi Tổng Thống Rodrigo Duterte tuyên bố là sẽ huỷ Thoả thuận Lực lượng Thăm viếng với Mỹ thì các nhà phân tích đã biết là trước sau gì Philippines cũng sẽ tìm cớ để không huỷ thoả thuận đó nữa.
Nay Duterte bị sức ép trong nước trước những hành động đe doạ của Trung Quốc thì thấy phải cần có sự hổ trợ của Mỹ cho nên bảo Đại sứ Philippines tại Hoa Kỳ nói là "tạm không huỷ" thoả thuận đó nữa. Lẽ dĩ nhiên là phải có dàn xếp, hay đàm phán, giữa hai nước trước khi có tuyên bố đó.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Từ lâu đã có khác biệt trong cái nhìn của Tổng thống Duterte một bên với đảng đối lập và quân đội một bên khác về chính sách đối với Trung Quốc và tâm quan trọng của hiêp ước phòng thủ hỗ tương Phi-Mỹ, và nhất là Thỏa thuận lực lượng thăm viếng cho phép quân Mỹ có chân đứng ở Philippines và níu kéo sư hiện diện của Mỹ ở vùng này.
Những hành động hung hăng gần đây của Trung Quốc làm giới lãnh đạo Philippines quan ngại và không muốn cắt đứt hoàn toàn liên lạc quân sự với Hoa Kỳ vì Hoa Kỳ đã tỏ ra quan tâm hơn với vùng Biển Đông qua những tuyên bố cứng rắn và sự hiện diện dồn dập của các tàu chiến Hoa Kỳ - USS Gabriel Giffors, USS Montgomery, USNS Cesar Chavez, USS America, USS Bunker Hill, USS Barry, USS Mustin- trong tháng Tư và tháng Năm vừa qua.
Nhất là sư hiện diện của tàu sân bay America ủng hộ Malaysia thăm dò dầu ở trong vùng đặc quyên kinh tế của nước này trước sự đe dọa của các tàu hải giám Trung Quốc đi cùng với tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8.
Trong bối cảnh này Philippines đã mạnh dạn trao hai công hàm ngoại giao phản đối viêc tàu Trung Quốc đã chĩa súng radar vào tàu Philippines tại vùng biển Tây Philippines và đã "tuyên bố môt phần lãnh thổ của Philippines là một phần của tỉnh Hải Nam," đồng thời ủng hộ Việt Nam và chỉ trích việc tàu Trung Quốc đâm chìm môt tàu đánh cá Việt Nam hồi đầu tháng Tư.
Bắc Kinh ngày 1/6 Bản quyền hình ảnh Reuters
Image caption Bắc Kinh ngày 1/6

Trùng hợp hay phối hợp?

BBC: Trước đó không lâu, hôm 26/5, Indonesia cũng đã có công hàm gửi lên LHQ nêu rõ sự ủng hộ của chính phủ nước này đối với phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài thường trực (PCA) ở The Hague xử Philippines thắng kiện Trung Quốc. Sự kiện này và xâu chuỗi các sự kiện trên ở Đông Nam Á và khu vực liên quan tới an ninh Biển Đông, có thể rút ra nhận thức mới và đáng kể gì?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Sự kiện này cho biết là Indonesia, nước lớn nhất trong khu vưc và nước ít bị đe doạ nhất trước các hành động của Trung Quốc, nay cũng đã thấy cần cùng với các nước khác bảo vệ luật pháp quốc tế để có thể bảo vệ an ninh và lợi ích quốc gia của mình.
Việc này rất quan trọng vì cho thấy là có sự đồng tình của các nước ven biển, mặc dầu Trung Quốc đã cố tình chia rẽ các nước ASEAN qua mua chuộc và đe doạ.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Ngay từ tháng 1/2020, Tổng Thống Widodo đã tuyên bố không nhượng bộ về chủ quyền của Indonesia ở vùng biển Natuna, nhưng tàu đánh cá của Trung Quốc vẫn đến đánh cá tại nơi mà họ bảo là "ngư trường truyền thống" của họ và bị Indonesia xua đuổi.
Ngoại trưởng Masudi cũng tuyên bố Indonesia "không bao giờ chấp nhận đường 9 đoạn của Trung Quốc."
Việc gửi công hàm ngày 26/5 là tiếp tuc chính sách ấy và chính thức đặt vấn đề trước LHQ ngay sau hành động của Viêt Nam, Malaysia, Philippines, và trước Hoa Kỳ.
Đây là môt sự trùng hợp đặc biệt khiến người ta tư hỏi phải chăng có sự phối hợp, hay ít nhất là sự đồng thuận chống Trung Quốcc trong vấn đề này?
BBC:Trở lại với động thái của Hoa Kỳ hôm 3/6 phản đối sự "phi pháp và nguy hiểm" của Trung Quốc trên Biển Đông, sự kiện này từ nay có thể mở ra một trang mới hay thậm chí một chương lớn gì hay không về mặt an ninh, bang giao quốc tế và pháp lý trên Biển Đông?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: So với 3 năm qua, đông thái này cho thấy Hoa Kỳ có thể bắt đầu muốn can dự tích cưc hơn về tranh chấp Biển Đông và phối hợp với các nước Đông Nam Á chống sự lấn lướt của Trung Quốc sau khi làm cho họ thất vọng và nghi ngờ khả năng của Hoa Kỳ bắt đầu từ việc rút khỏi TPP và coi thường đồng minh với chính sách "Nước Mỹ Trên Hết."
Vài hôm trước đây, ngày 2/6, Edward Alden đã viết bài trên World Politics Review đề nghị Hoa Kỳ nếu muốn trở lại Á châu thì phải bỏ chính sách "Nước Mỹ Trên Hêt" và thương thuyết để trở lại TPP.
Ngoài trắc nghiệm này, một điều nữa có thể cho người ta biết liệu Hoa Kỳ có thật tâm ủng hộ chủ quyền theo Luật Biển của các nước có tranh chấp với Trung Quốc?
Hoa Kỳ có tiếp tục biểu dương lưc lượng hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á khai thác tài nguyên của họ trong vùng biển mà họ có chủ quyền theo công pháp quốc tế?
Nếu câu trả lời là có, thì đây là mở đầu một trang mới ở Biển Đông, vừa có hy vọng giải quyết tranh chấp hòa bình vừa có nguy cơ của chiến tranh nếu Trung Quốc không tự kiềm chế.
Dù sao, các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc cần tỉnh táo nhận định khả năng và cam kết thực sự của Hoa Kỳ khi Tổng thống Donald Trump phải chú trọng đến nhu cầu tranh cử trong khi phải đối phó nạn dịch Covid-19, một nền kinh tế xuống dốc, và các cuộc biểu tình chống kỳ thị chủng tộc.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Như đã đề cập đến phía trên, động thái của Hoa Kỳ gần đây có được là vì các nước ven biển trong khu vực Biển Đông đã xích gần nhau để bảo vệ lợi ích chung.
Hoa Kỳ có cớ để giải thích là nước nầy cùng với các nước trong khu vực bảo vệ an ninh chung cho toàn thế giới, cũng như bảo vệ luật pháp quốc tế.
Hoa Kỳ có thể làm tốt hơn nữa nếu có thể huy động Quốc Hội phê chuẩn UNCLOS mà nước nầy đã ký.
Đáng lý ra thì Quốc Hội Mỹ đã có thể phê chuẩn đạo luật nầy dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan rồi, nhưng ông ấy chống.
Sau đó ông ấy thấy sai nên đã ký sắc lệnh là Hoa Kỳ sẽ luôn luôn tuân thủ UNCLOS. Các động thái của Hoa Kỳ, của một số nước ASEAN và của các nước có liên quan gần đây cho thấy rằng đang có bước ngoặc trong việc cùng nhau bảo vệ an ninh và lợi ích chung trong khu vực Biển Đông nói riêng và Châu Á Thái Bình Dương nói chung.
Vì đang là chủ tịch ASEAN và thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy nhận thức, cũng như tiến trình, trong việc thiết lập các chính sách và cơ chế hợp thời và hữu hiệu cho các mục đích trên.
----------------------------

Công hàm của Hoa Kỳ và việc khai thác tại lô 06-01



Nhà giàn của Việt Nam ở Trường Sa Bản quyền hình ảnh Kien Pham
Image caption Nhà giàn của Việt Nam ở Trường Sa
Có thể nhắc một loạt các hành động hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông gần đây, từ việc đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam gần Hoàng Sa, rồi cho thành lập chính quyền cấp khu ở cái gọi là "Tây Sa" (Hoàng Sa) và "Nam Sa" (Trường Sa), cho đến việc đặt tên cho 80 thực thể nằm rải rác ở Biển Đông.
Đặc biệt gần đây, rất quan tâm khi báo South China Morning Post hé lộ Trung Quốc có thể tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông .
Tất cả các hành động đó của Trung Quốc đã khiến khu vực Biển Đông trở thành "chảo dầu châu Á", có nguy cơ "bùng nổ" bất cứ lúc nào.

Cuộc chiến công hàm

Trong bối cảnh đó, cuộc chiến pháp lý lại Biển Đông lại càng "nóng" hơn bao giờ hết, sau khi Hoa Kỳ lần đầu tiên chính thức gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc, phản đối các yêu sách biển quá đáng, trái với luật biển quốc tế của Trung Quốc vào ngày 1/6//2020.
Mặc dù công hàm này được gửi từ 1/6/2020 nhưng công chúng chỉ biết đến khi đích thân Ngoại trưởng Hoa Kỳ Pompeo đích thân đưa tin này kèm theo link trên tài khoản Twitter của mình.
Trong công hàm này, phía Hoa Kỳ phản đối các vấn đề như sau trong yêu sách của Trung Quốc:
Thứ nhất, Hoa Kỳ phản đối yêu sách "quyền lịch sử" ở Biển Đông của Trung Quốc, bởi vì các quy định về các vùng biển của mỗi một quốc gia ven biển được quy định rõ trong Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS). Và bất cứ quyền nào của Trung Quốc, nếu có, đều không thể vượt lên trên UNCLOS mà Trung Quốc là một thành viên. Trước đó, Trung Quốc đã đưa ra giải thích là họ có "quyền lịch sử" đối với toàn bộ các vùng nước và các thực thể bên trong "đường lưỡi bò". "Đường lưỡi bò" tai tiếng này đã bị công kích dữ dội trên toàn thế giới, đặc biệt Phán quyết năm 2016 của Toà Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã chính thức bác bỏ "quyền lịch sử" của Trung Quốc ở đây.
Thứ hai, Hoa Kỳ phản đối việc Trung Quốc tự ý áp dụng đường cơ sở thẳng bao quanh các cấu trúc trên Biển Đông , cụ thể là Trung Quốc năm 1996 đã tự ý tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa, trong khi việc vạch đường cơ sở thẳng như vậy chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp quốc gia quần đảo như Indonesia hoặc Philippines. Mà Trung Quốc không phải là quốc gia quần đảo, thêm nữa, các cấu trúc tại Biển Đông đều không đáp ứng được yêu cầu là "đảo". Cho nên việc đơn phương tuyên bố đường cơ sở của Trung Quốc như ở Hoàng Sa là trái với luật biển quốc tế, bao gồm cả UNCLOS.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, ảnh ngày 20/5 Bản quyền hình ảnh EPA
Image caption Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, ảnh ngày 20/5
Thứ ba, trong các yêu sách của Trung Quốc, họ hay nhập nhèm tuyên bố rằng, tất cả các cấu trúc tại Biển Đông mà Trung Quốc gọi là Nam Hải Chư Đảo đều là đảo, do đó đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kèm theo, và do Trung Quốc có chủ quyền trên tất cả các cấu trúc này, nên họ cũng có quyền chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng nước và đáy biển, lòng đất dưới đáy biển ở đây. Như đã nêu ở trên, không có cấu trúc nào ở Biển Đông có thể đáp ứng yêu cầu là "đảo" theo điều 121 UNCLOS cho nên không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được. Thêm nữa, nhiều cấu trúc trên Biển Đông chỉ là bãi ngầm luôn chìm dưới mặt nước biển cũng như các cấu trúc lúc chìm lúc nổi, theo nguyên tắc "đất thống trị biển" của luật biển quốc tế thì các cấu trúc dạng này không thể là đối tượng để yêu sách chủ quyền được, càng không thể nói chuyện có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được. Với yêu sách như vậy, Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng tới luật biển quốc tế.
Thứ tư, Toà trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS trong vụ Philippines kiện Trung Quốc là một thiết chế hợp pháp của UNCLOS, do đó, Phán quyết năm 2016 của Toà này có giá trị chung thẩm và ràng buộc pháp lý với Trung Quốc và Philippines. Trong Phán quyết 2016 này, tất cả các vấn đề nêu trên về "quyền lịch sử", đường cơ sở thẳng, các cấu trúc là "đảo" hay không đều được Toà Trọng tài giải thích rõ ràng. Là một thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ phải tuân thủ Phán quyết 2016 này, Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc tôn trọng và chấp hành Phán quyết 2016.
Hà Nội ngày 4/6 Bản quyền hình ảnh AFP
Image caption Hà Nội ngày 4/6
Trước đó, ngày 6/3/2020 Philippines đã gửi công hàm lên LHQ; Việt Nam gửi công hàm lên LHQ ngày 30/3/2020; Indonesia gửi công hàm lên LHQ ngày 26/5/2020.
Không hẹn mà gặp, trong lập trường của Philippines, Việt Nam, Indonesia, Hoa Kỳ cũng như Malaysia (cho dù Malaysia chưa đưa ra quan điểm chính thức, nhưng với việc Đệ trình thềm lục địa mở rộng ngày 12/12/2019 cũng cho thấy Malaysia thể hiện sự tôn trọng Phán quyết 2016) đều có chung quan điểm giống nhau trong việc phản đối các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông như đã nêu trên.
Đặc biệt, nội dung phản đối trong công hàm của Hoa Kỳ ngày 1/6/2020 với công hàm của Việt Nam ngày 30/3/2020 có hầu hết các điểm chung, trên cả 4 vấn đề đã nêu.

Thông điệp từ Hoa Kỳ

Nhiều người đặt câu hỏi Hoa Kỳ chọn thời điểm này để lần đầu gửi công hàm lên LHQ phản đối các yêu sách của Trung Quốc với thông điệp gì?
Đặt trong bối cảnh sự cạnh tranh quyết liệt giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc và quan hệ ngày càng xấu đi của cả hai bên cùng với việc Trung Quốc gia tăng các hành động hung hăng, ức hiếp các quốc gia khác trên Biển Đông .
Ta có thể thấy công hàm vào thời điểm này của Hoa Kỳ như một "liều thuốc" trợ giúp tinh thần cho các quốc gia ASEAN đang bị Trung Quốc bắt nạt, đe doạ trên Biển Đông . Ngoài ra, thông điệp của Hoa Kỳ lúc này được hiểu là Hoa Kỳ ủng hộ và sát cánh các quốc gia ASEAN chống lại các yêu sách biển phi lý cũng như các hành động khiêu khích từ Trung Quốc.
Công hàm này từ phía Mỹ có thể được hiểu như là sự khích lệ các bên, nếu các bên có các hành động hoặc yêu sách phù hợp với luật pháp quốc tế thì Hoa Kỳ sẵn sàng ủng hộ.
Một vấn đề quan trọng tiếp theo là bên cạnh các tuyên bố mang tính pháp lý của các quốc gia liên quan như đã nêu trên thì các quốc gia liên quan cần phải làm gì để luật pháp quốc tế trong đó có Phán quyết 2016 được tôn trọng và áp dụng trong thực tế?
Hà Nội ngày 4/6 Bản quyền hình ảnh AFP
Image caption Hà Nội ngày 4/6

Chính sách nào đối với Biển Đông?

Trong thực tế, mỗi một quốc gia ASEAN liên quan đến tranh chấp Biển Đông đều có một chính sách của riêng mình.
Tuy nhiên, ngay cả chính quyền Philippines đương nhiệm của Tổng thống Duterte - vốn nổi tiếng thất thường và "thân Trung Quốc" vẫn tiếp tục viện dẫn Phán quyết 2016. Cho dù ông Duterte nhiều lần tuyên bố "gác lại" Phán quyết 2016 để giành những lợi ích kinh tế từ Trung Quốc nhưng việc viện dẫn Phán quyết 2016 cho thấy Phán quyết 2016 là một phần quan trọng của luật biển quốc tế và UNCLOS.
Indonesia thì cương quyết bảo vệ lợi ích quốc gia của mình tới cùng nhưng cũng sẵn sàng "xuống thang" trong việc đối đầu với Trung Quốc trên biển.
Malaysia thì kiên trì "chính sách ngoại giao im lặng". Mặc dù không lớn tiếng chỉ trích Trung Quốc nhưng Malaysia cũng kiên quyết bảo vệ các lợi ích biển của mình.
Vợ chồng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Hà Nội tháng 11/2015 Bản quyền hình ảnh EPA
Image caption Vợ chồng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Hà Nội tháng 11/2015
Việt Nam cũng là một quốc gia trực tiếp liên quan đến tranh chấp Biển Đông . Thời gian vừa qua, Việt Nam là một trong các quốc gia chịu nhiều quấy rối nhất từ Trung Quốc trên Biển Đông .
Chính sách của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông thời gian vừa qua thể hiện "dĩ bất biến ứng vạn biến". "Bất biến" ở đây là tập trung giữ vững những gì đang có, tức là bảo vệ vững chắc 21 cấu trúc tại Trường Sa mà Việt Nam đang kiểm soát, đồng thời phải bảo vệ bằng được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, vì theo UNCLOS, Việt Nam đương nhiên được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển ấy. "Vạn biến" có nghĩa là Việt Nam có thể phải sử dụng nhiều biện pháp và nguồn lực khác nhau để bảo vệ lợi ích trên biển của quốc gia và dân tộc.

Liệu Việt Nam có quyết tâm?

Mặc dù Việt Nam vẫn giữ vững "tất cả những gì đang có", nhưng cũng có những vấn đề nhất định trong chính sách về Biển Đông .
Nếu như trong năm 2014, Việt Nam đã rất thành công trong việc sử dụng biện pháp hoà bình, dùng sức ép ngoại giao và công luận quốc tế buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển thuộc EEZ của Việt Nam.
Nhưng với những bước lùi khi phải rút khỏi việc thăm dò tại lô 136.03 với mỏ Cá Kiếm Nâu hồi năm 2017, rồi rút khỏi lô 07.03 tại mỏ Cá Rồng Đỏ năm 2018 đã khiến cho uy thế của Việt Nam giảm đi một cách đáng kể. Và Trung Quốc vốn rất giỏi trong việc tạo sức ép đối với các quốc gia khác, đã tận dụng cơ hội để "đe doạ", gia tăng sức ép đối với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Thông tin mới nhất cho biết, hiện nay Chính phủ Việt Nam đang xem xét khả năng khai thác trở lại lô 06-01.
Quyết định có khai thác trở lại hay không sẽ được quyết định trong nay mai.
Đây là mỏ khí có trữ lượng khá lớn, khoảng 9,5 triệu m3 khí xuất về bờ nếu khai thác thành công. Mỏ này nằm tại bể Nam Côn Sơn, hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, không phải là nằm trong vùng tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, năm 2019, Trung Quốc đã cho đoàn tàu hải cảnh của họ cùng với tàu Hải Dương Địa Chất 8 quấy rối liên tục tại khu vực mỏ này hơn 100 ngày. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn lớn tiếng tuyên bố đây là vùng thuộc Bãi Tư Chính, là vùng tranh chấp với "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, trong khi mỏ này nằm trên Bể Nam Côn Sơn, cách Bãi Tư Chính khá xa.
Chính sức ép và đe doạ từ Trung Quốc đã ảnh hưởng đến việc quyết định có khai thác trở lại lô 06-01 hay không của Chính phủ Việt Nam. Cho dù về luật pháp quốc tế, Việt Nam hoàn toàn vững tâm có đầy đủ cơ sở pháp lý để khai thác mỏ này.
Trong một phát biểu mới đây của bà Bonnie Glaser - chuyên gia từ Hoa Kỳ, bà ta cho rằng cần một quyết định chính trị để Việt Nam có thể kiện Trung Quốc như Philippines đã làm.
Và có lẽ, việc quyết định khai thác trở lại hay không lô 06-01 cũng đang cần một quyết tâm chính trị của lãnh đạo Việt Nam.
Một mặt, điều này sẽ mở đường rất quan trọng cho việc khai thác dầu khí sau này của Việt Nam.
Khi các mỏ dần khí gần bờ đã khai thác cạn kiệt, còn các mỏ tuy giàu trữ lượng nhưng nằm xa bờ và luôn bị Trung Quốc đe doạ gây sức ép phải rút.
Mặt khác đây cũng là dịp Việt Nam có thể thể hiện với cộng đồng quốc tế và ASEAN về việc Việt Nam có giữ vững lập tường dựa trên UNCLOS để quyết tâm bảo vệ các lợi ích biển của mình hay không?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, Đại học Luật TP.HCM.

0 comments

Leave a comment

Powered by Blogger.