Tin Biển Đông – 26/05/2020
Hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu sắp hoàn thành: TQ sẽ tăng cường khả năng giám sát Biển Đông
Vệ tinh cuối cùng trong Hệ thống Bắc Đẩu 3 của Trung Quốc đã được vận chuyển đến Trung tâm phóng vệ tinh Tây Xương và sẽ được phóng vào tháng 6/2020.
Phát biểu bên lề cuộc họp Lưỡng hội hàng năm của Trung Quốc, ông Dương Trường Phong, Ủy viên Chính hiệp, Tổng thiết kế sư của Hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường Bắc Đẩu cho biết, vệ tinh cuối cùng trong Hệ thống Bắc Đẩu 3 của nước này sẽ được phóng vào tháng 6/2020, là bước cuối cùng trong việc hoàn thiện Hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường của nước này; khẳng định, Hệ thống Bắc Đẩu của Trung Quốc là hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường có quy mô lớn nhất, phạm vi phủ sóng rộng nhất và nhiều tính năng nhất trong các Hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường hiện nay. Hiện dịch vụ của Hệ thống Bắc Đẩu đã có mặt tại 120 quốc gia và khu vực, trong đó tập trung vào các lĩnh vực giao thông, nông nghiệp, thi công số, cảng thông minh… Tại Trung Quốc thì hơn 70% điện thoại thông minh sử dụng các dịch vụ của Bắc Đẩu. Theo vị này, thông qua nhiều giai đoạn tìm tòi nghiên cứu, chúng tôi đã xây dựng được chiến lược phát triển ba bước, phù hợp với điều kiện, tình hình của Trung Quốc, cung cấp phương án Trung Quốc cho dịch vụ vệ tinh định vị toàn cầu.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu phát triển hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường của riêng mình, tuy nhiên phải đến đầu những năm 90, tham vọng này mới bắt đầu được triển khai trên thực tế thông qua chiến lược “3 bước”. Bước 1, từ năm 1994 xây dựng hệ thống Bắc Đẩu thế hệ thứ 1 (BDS-1) với 3 vệ tinh Bắc Đẩu- G ở quỹ đạo đĩa tĩnh (GEO) (phóng lên quỹ đạo năm 2000 và 2003). Đây là hệ thống thử nghiệm và đã dừng hoạt động vào năm 2012. Bước 2, từ năm 2004, xây dựng hệ thống Bắc Đẩu thế hệ thứ 2 (BDS-2), đến năm 2012 Trung Quốc đã hoàn thiện Hệ thống BDS-2 với 14 vệ tinh (trong đó bao gồm 5 vệ tinh Bắc Đẩu-G ở quỹ đạo địa tĩnh (GEO), 5 vệ tĩnh Bắc đẩu – I ở Quỹ đạo đồng bộ trái đất nghiêng (IGSO) và 4 vệ tinh Bắc Đẩu – M ở Quỹ đạo trái đất tầm trung (MEO).
Hệ thống BDS-2 đã cung cấp dịch vụ định vị và đường truyền tin tức cho các khách hàng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bước 3, từ năm 2009, xây dựng hệ thống Bắc Đẩu thế hệ thứ 3 (BDS-3), theo kế hoạch đến năm 2020, nước này sẽ phóng đủ 35 vệ tinh BDS-3 và có khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Trong 35 vệ tinh của Hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu 3 có 27 vệ tinh Bắc Đẩu – M ở Quỹ đạo trái đất tầm trung (MEO), 5 vệ tinh Bắc Đẩu – G ở quỹ đạo địa tĩnh (GEO) và 3 vệ tinh Bắc Đẩu – I ở Quỹ đạo đồng bộ trái đất nghiêng (IGSO).
Hệ thống định vị Bắc Đẩu của Trung Quốc cung cấp dịch vụ định vị chuẩn xác trong phạm vi 10m trên toàn thế giới, còn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương là trong phạm vi 5m. Để đạt được độ chuẩn xác
như vậy, ngoài việc sử dụng Quỹ đạo trái đất tầm trung (MEO) như các hệ thống vệ tinh định vị khác, Bắc Đẩu còn sử dụng Quỹ đạo địa tĩnh (GEO) và Quỹ đạo đồng bộ trái đất nghiêng (IGSO) giúp tăng khả năng các thiết bị thu nhìn thấy vệ tinh. Mặc dù phát triển sau, tuy nhiên Hệ thống vệ tinh định vị dẫn đường Bắc Đẩu của Trung Quốc được cho là đang cạnh tranh mạnh mẽ với các hệ thống định vị trước đó như GPS của Mỹ, GLONAS của Nga và Galileo của liên minh châu Âu (EU).
Trong khi đó, có nhiều ý kiến cho rằng, việc Trung Quốc phóng thành công cụm vệ tinh Bắc Đẩu-3 sẽ tăng cường các chức năng tích hợp như truyền tín hiệu giữa các vệ tinh, truyền tín hiệu với mặt đất, bảo đảm kết nối giữa trạm mặt đất với các vệ tinh trên quỹ đạo cao và quỹ đạo thấp. Việc đưa Bắc Đẩu-3 vào quỹ đạo đã mở rộng phạm vi phủ sóng trên toàn cầu của Trung Quốc. Nó góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ các mục đích quân sự (kiểm soát đường biên giới, định vị mục tiêu quân sự, hỗ trợ định vị đường bay của tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo…), và kiểm soát thực địa ở Biển Đông (kiểm soát tàu, thuyền các nước ở Biển Đông).
Ngoài Bắc Đẩu -3, thời gian vừa qua, quân đội Trung Quốc đã phóng khá nhiều vệ tinh trinh sát biển với khả năng hỗ trợ tác chiến cho tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình và tên lửa phòng không, như các vệ tinh quang – điện tử (EO) cung cấp hình ảnh số; vệ tinh mang rađa mặt mở tổng hợp (SAR) để quan sát ban đêm, cung cấp hình ảnh trong mọi điều kiện thời tiết; vệ tinh tình báo điện tử (ELINT) để xác định vị trí và nhận dạng các tàu bằng phát xạ điện từ.
Việc Trung Quốc tăng cường sử dụng các hệ thống vệ tinh theo dõi, giám sát biển có tác động lớn đối với hòa bình, ổn định trên Biển Đông. Theo đó, Trung Quốc triển khai hệ thống vệ tinh giám sát ngày đêm ở Biển Đông chính là nhằm gia tăng sự kiểm soát trên vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố “chủ quyền” phi pháp trong khu vực. Hoạt động này dẫn đến việc Trung Quốc sẽ theo dõi, nắm được hoạt động hàng hải, hàng không hợp pháp của các nước liên quan, gây ra mối đe dọa sâu sắc đối với các hoạt động tự do hàng hải, hàng không trong khu vực. Ngoài ra, một hệ thống định vị toàn cầu độc lập cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng kiểm soát, theo dõi tất cả các mục tiêu từ trên không, nâng cao năng lực phối hợp tác chiến, giành ưu thế trong mọi tình huống…
Ngoài ra, các hệ thống vệ tinh sẽ cho phép quân đội Trung Quốc theo dõi, trinh sát, thông tin liên lạc và chuyển tiếp số liệu cho các hoạt động theo dõi và phát hiện mục tiêu trên biển. Thu thập thành công hình ảnh trung thực và độ phân giải cao, xác định mục tiêu và định vị của vệ tinh sẽ tạo thuận lợi cho quân đội Trung Quốc ngăn chặn tàu thuyền các nước bằng các loại tên lửa đạn đạo có điều khiển chính xác và tên lửa hạt nhân tầm thấp. Theo Phó Đô đốc David Dorsett, Phó Tư lệnh phụ trách Các Hoạt động của Hải quân Mỹ: “Cách đây 10 năm, Trung Quốc chưa có rađa phát hiện mục tiêu ngoài chân trời và chưa có IRS (tình báo, giám sát và do thám). Các vệ tinh là đường kết nối quan trọng trong cơ cấu ISR mà quân đội Trung Quốc rất cần để phát hiện, theo dõi và tiến công các tàu nổi nước ngoài trong khu vực biển tranh chấp. Hiện nay Trung Quốc vận hành khá nhiều vệ tinh, từ đó có thể cung cấp các số liệu quan trọng về mục tiêu trong khu vực Biển Đông.
Hội thảo “Đi qua những vùng biển tranh chấp”:
Các nước cần phối hợp
đối phó với TQ hung hăng trên Biển Đông
Vấn đề Biển Đông cần được giải quyết theo cơ chế đa phương. Những hành động riêng rẽ của các quốc gia có liên quan trong khu vực như Việt Nam, Philippines, Malaysia … hay các quốc gia ngoài khu vực như Mỹ, Australia, Nhật Bản … gần như không có nhiều tác động đến Trung Quốc và cũng rất khó thuyết phục Bắc Kinh thay đổi những hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông.
Phát biểu tại Hội thảo trực tuyến về vấn đề Biển Đông có chủ đề “Đi qua những vùng biển tranh chấp”, Giám đốc cơ quan Sáng kiến Minh bạch Hàng hải (AMTI) Greg Poling (15/5) nhận định, vấn đề Biển Đông đòi hỏi các nước phải hợp tác chặt chẽ để gây sức ép buộc Trung Quốc phải chấm dứt những hành vi sai trái trong thời gian qua. Vì việc giải quyết tranh chấp trong vùng biển này cần các cơ chế đa phương. Những hành động riêng rẽ của các quốc gia có liên quan trong khu vực như Việt Nam, Philippines, Malaysia … hay các quốc gia ngoài khu vực như Mỹ, Australia, Nhật Bản … gần như không có nhiều tác động đến Trung Quốc và cũng rất khó thuyết phục Bắc Kinh thay đổi những hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực cần tăng cường hợp tác với
Trung Quốc để Trung Quốc nhận thấy những lợi ích to lớn từ việc này trong khi vẫn buộc Trung Quốc phải tôn trọng quyền khai thác và bảo vệ những nguồn lợi về tài nguyên, khoáng sản hợp pháp của các quốc gia trong khu vực ở Biển Đông, đồng thời yêu cầu Trung Quốc chấm dứt những hành vi chèn ép ngang ngược như đã từng diễn ra trong thời gian qua.
Theo chuyên gia Greg Poling, giờ là lúc Trung Quốc có thể tính đến việc tiếp diễn và thậm chí là làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông sau khi nước này về cơ bản đã khống chế được đại dịch Covid-19 trong khi nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực vẫn đang vật lộn đối phó với dịch bệnh. Chính vì thế, các nước trong khu vực cần thống nhất quan điểm về những gì cần phải làm để đối phó với những tham vọng sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự đoàn kết của các nước trong khu vực nếu được thể hiện đúng lúc và mạnh mẽ sẽ khiến Trung Quốc buộc phải thể hiện mình là một bên có trách nhiệm hơn ở Biển Đông nếu không muốn hình ảnh quốc gia của nước này bị tổn hại nghiêm trọng hơn.
Liên quan hoạt động tuần tra tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ ở Biển Đông, ông Greg Poling nhận định, dù thường được coi là một trong những “hoạt động mang tính chiến lược” của Mỹ đối với tình hình Biển Đông và hoàn toàn mang tính hợp pháp, FONOP trên thực tế được đánh giá là “không gây nhiều tác động” đến Trung Quốc cũng như vấp phải những phản ứng trái chiều từ chính các quốc gia trong khu vực. Điều này được minh chứng rõ rệt nhất từ Philippines – một trong những đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Trong nhiều năm qua, Mỹ đã liên tục tiến hành nhiều đợt FONOP qua vùng biển của Philippines nhưng vẫn không ngăn được Trung Quốc phong toả và chiếm đóng phi pháp bãi cạn Scarborough. Sau vụ việc nói trên, không chỉ Philippines mà nhiều đồng minh khác của Mỹ như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã nhận ra rằng, FONOP không phải là cách thức hiệu quả để buộc Trung Quốc thay đổi hành vi sai trái của mình ở Biển Đông. Thậm chí, nhiều quốc gia còn cho rằng, FONOP chỉ là cách để Mỹ thể hiện rằng, Mỹ có quan điểm hoàn toàn độc lập và không bị tác động từ phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. FONOP vì thế được coi là “hành động cần thiết” nhưng “vẫn chưa đủ mạnh” của Mỹ trước những hành vi khiêu khích ngày càng leo thang của Trung Quốc trong thời gian gần đây ở Biển Đông.
Tuy nhiên, Mỹ hiện vẫn chưa đề ra được một chiến lược cụ thể nhằm đối phó với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông và FONOP chỉ là một hành động mang tính biểu tượng nhằm thể hiện cam kết của Mỹ với các đồng minh then chốt trong khu vực. Đây cũng chính là lý do khiến Trung Quốc trong thời gian qua ngày càng đẩy mạnh những hành vi sai trái nhằm thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông của nước này. Giám đốc AMTI cũng cho rằng, tình hình hiện nay ở Biển Đông đã rất nghiêm trọng nhưng chưa đến mức “không thể cứu vãn”. Tuy nhiên, ông Poling cảnh báo, các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế cần sớm có những hành động cấp bách và quan trọng nhất là cần đoàn kết chặt chẽ hơn nữa để ngăn chặn mưu đồ sai trái của Trung Quốc trước khi mọi việc đi quá xa trong vòng 10 năm tới.
Trong những năm gần đây, việc Trung Quốc liên tục gia tăng các hoạt động phi pháp trên Biển Đông đã đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực. Để ngăn chặn các hoạt động của Trung Quốc, giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế đã đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp khả thi.
Về các biện pháp ngoại giao: Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông cần thống nhất lập trường, quan điểm trong việc ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông; tích cực đưa ra các tuyên bố lên án, chỉ trích hành động ngang ngược của Bắc Kinh tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Cụ thể:
Tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế và khu vực, lãnh đạo các nước liên quan cần tích cực đưa ra các tuyên bố, phát ngôn chỉ trích, lên án những hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Thời gian qua, rất nhiều nước, đặc biệt là những nước lớn trong khu vực cũng như trên thế giới đã tích cực thể hiện vai trò, trách nhiệm trong việc lên án những hành động khiêu khích, coi thường luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Anh, Philippines, Singapore… đều nhiều lần đưa ra các tuyên bố thể hiện sự quan ngại, phản đối các hành động đơn phương, quân sự hóa của Bắc Kinh đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế cần có các hành động cụ thể nhằm đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông, cũng như hòa bình, ổn định trong khu vực.
Các nước liên quan cũng cần tăng cường can thiệp ngoại giao trực tiếp với Trung Quốc nhằm thể hiện thái độ, quan điểm của mình đối với vấn đề Biển Đông. Trong những năm gần đây, tại các cuộc gặp cấp cao giữa một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam… với Trung Quốc, các nước đều đề cập quan điểm, thái độ liên quan tình hình Biển Đông. Hành động này của các nước liên quan đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực và kiềm chế, ngăn chặn Trung Quốc gia tăng các hoạt động phi pháp ở Biển Đông.
Các nước liên quan tranh chấp cần tiếp tục thúc đẩy tiến trình quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất, tác động và ảnh hưởng của tranh chấp Biển Đông đối với hòa bình, ổn định của khu vực cũng như trên thế giới. Trên thực tế, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông vốn là một vấn đề quốc tế, nhưng nó đang bị Trung Quốc kiềm hãm và tìm cách ngăn cản cộng đồng quốc tế can thiệp vào, khiến tình hình tranh chấp ngày càng xấu đi.
Các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, NATO, EU… cần thể hiện vai trò của mình trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, ngăn chặn các hành động phi pháp, khiêu khích trong khu vực, vì nếu tranh chấp ở Biển Đông trở nên căng thẳng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nước trong khu vực, những nước có hoạt động giao thương hàng hải qua Biển Đông.
Về các biện pháp quân sự: Trước các hành động ngày càng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và Vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc cần tăng cường sức mạnh quân sự và có các hành động cụ thể để bảo vệ những tuyến đường biển, cầu cảng cũng như các đường biên giới biển quan trọng cho hoạt động xuất nhập khẩu, cung cấp nhiên liệu.
Các nước cần đầu tư, mua sắm trang thiết bị quân sự để đề phòng bị Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo, đá ở Biển Đông. Tuy khả năng xảy ra xung đột vũ trang quy mô lớn là không cao, song không thể loại trừ việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự để xâm chiếm các đảo, đá ở Biển Đông và ép các nước, trong đó có Việt Nam phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, phần lớn các nước ASEAN tập trung mua sắm vũ khí hiện đại, đáp ứng cho hoạt động phòng không và phòng vệ trên biển như tàu chiến, tàu tuần tra, hệ thống radar, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và tên lửa chống hạm. Chuyên gia phân tích Công nghiệp Quốc phòng châu Á Thái Bình Dương Jon Grevatt (tạp chí IHS Jane’s) nhận định, “bảo vệ chủ quyền là mục tiêu hàng đầu của chính phủ các nước trong khu vực. Rõ ràng các hoạt động của Trung Quốc đã làm gia tăng vấn đề về bảo vệ lãnh thổ”.
Các nước cần tăng cường các hoạt động tập trận, tuần tra trong khu vực. Những hoạt động trên không chỉ góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông, đối phó với các mối đe dọa về an ninh phi truyền thống mà còn có tác dụng trực tiếp răn đe, ngăn chặn các hoạt động khiêu khích của Bắc Kinh. Trong những năm gần đây, việc Mỹ và các nước đồng minh liên tục tiến hành tuần tra, đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực là một trong những ví dụ điển hình về việc ngăn chặn và thách thức hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ và các nước đồng minh đã liên tục cử tàu chiến (bao gồm tàu ngầm, tàu sân bay, tàu khu trụ…), máy bay chiến đấu (máy bay trinh sát, máy bay ném bom B-52, máy bay tuần tra…) đến hoạt động trong khu vực Biển Đông. Đáng chú ý, những nước này đã nhiều lần cử tàu chiến áp sát các đảo nhân tạo do Trung Quốc chiếm đóng và cải tạo phi pháp ở quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa nhằm phản đối yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh và qua đó thể hiện quyết tâm bảo vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
Tăng cường các hoạt động quân sự, đáp trả hành vi vi phạm pháp luật của Trung Quốc. Nổi bật nhất là việc Mỹ hủy lời mời Trung Quốc tham dự cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) 2018 và từ chối mời Trung Quốc tham dự tập trận năm 2020 sắp tới.
Về các biện pháp pháp lý: Việc Trung Quốc không tuân thủ luật pháp quốc tế trong việc đưa ra yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, sử dụng vũ lực chiếm đóng phi pháp các đảo, đá, bãi cạn ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam), không tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016)… tạo tiền đề hợp pháp để các nước liên quan triển khai các biện pháp pháp lý đối phó với Trung Quốc:
Các nước cần chuẩn bị sẵn sàng về hồ sơ tài liệu để kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tế về việc vi phạm các quy định, cam kết liên quan vấn đề Biển Đông.
Các nước liên quan cũng có thể khởi kiện Trung Quốc về việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo, đá ở Biển Đông; khởi kiện những hành động của Trung Quốc (quân sự hóa, cấm đánh bắt cá…) đe dọa các hoạt động tự do hàng hải, hàng không trong khu vực, cũng như đe dọa hòa bình ổn định ở Biển Đông.
Không những vậy, các nước cũng có thể khởi kiện Trung Quốc về việc vi phạm các quy định liên quan nghĩa vụ giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, cũng như việc vi phạm các cam kết do chính Trung Quốc đưa ra đối với khu vực.
Về các biện pháp kinh tế, thương mại: Để đảm bảo tối đa lợi ích kinh tế ở Biển Đông, các nước liên quan cần tăng cường phối hợp, hình thành các liên minh, hợp tác khai thác tài nguyên, khoáng sản, hải sản và dấu khí trong khu vực. Việc hợp tác kinh tế không chỉ giúp các nước đẩy nhanh quá trình thăm dò, khai thác tài nguyên ở Biển Đông mà còn giúp các nước hỗ trợ lẫn nhau trong việc ngăn chặn, đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông, cụ thể:
Các nước có thể hình hành một cơ chế hợp tác đánh bắt hải sản ở Biển Đông. Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc là nước đầu tiên ở ven Biển Đông đơn phương đưa ra những quy định phi pháp về lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Đông. Hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế, mà còn gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đánh bắt hợp pháp các của các nước trong khu vực. Không những vậy, Trung Quốc còn thường xuyên sử dụng các lực lượng chấp pháp, các lực lượng bán vũ trang và cả những tàu cá trá hình để tấn công, đâm va, bắt bớ, thậm chí là nổ súng bắn phá tàu cá, ngư dân các nước. Nếu các nước ven Biển Đông có thể hình thanh một cơ chế hợp tác có thể sẽ ngăn chặn được các hoạt động phi pháp này của Trung Quốc.
Các nước cần tăng cường hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trong khu vực. Nhìn chung, các nước ven Biển Đông đều có trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu hơn so với Trung Quốc, chính vì vậy, việc thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Để khai thác được nguồn tài nguyên phong phú này, các nước liên quan cần tăng cường hợp tác với những nước có trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại và có đủ khả năng răn đe cũng như đáp trả các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, Ấn Độ… Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã nhiều lần sử dụng vị thế quốc tế cũng như sức mạnh quân sự để đe dọa, ngăn chặn (phi pháp) các nước hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Ngoài ra, các nước liên quan cũng cần có các biện pháp chế tài về kinh tế, thương mại để phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong khu vực. Tuy Trung Quốc vừa là nền kinh tế thứ hai trên thế giới, vừa là công xưởng sản xuất và thị trường lớn trên thế giới, nhưng nếu cộng động quốc tế cùng hợp tác ngăn chặn Trung Quốc thì hoàn toàn có thể thực hiện được. Chỉ đơn cử một ví dụ, tất cả các nước cùng ngừng nhập khẩu các mặt hàng do Trung Quốc khai thác, đánh bắt trái phép ở Biển Đông thì sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế của Bắc Kinh.
0 comments