Tin Biển Đông – 13/04/2000
TQ tích cực hoàn thiện thuỷ phi cơ AG600
đủ sức “bao phủ biển Đông”
Theo Thời báo Hoàn Cầu hôm 8/4, sau thời gian dịch bệnh, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc đang tích cực hoàn thiện thuỷ phi cơ AG600 để chuẩn bị đưa vào bay thử trên biển, nhằm sớm trang bị phương tiện đổ bộ đủ sức “bao phủ khắp Biển Đông.”
Kế hoạch kiểm soát biển Đông phục vụ tham vọng bá quyền của Bắc Kinh chưa khi nào dừng lại.
Hôm 8/4, truyền thông nhà nước Trung Quốc đưa tin cơ sở sản xuất ở Kinh Môn (Hồ Bắc) dưới sự chỉ đạo của Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc (AVIC), đã làm việc trở lại sau khi tình hình dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán có dấu hiệu hạ nhiệt. Đây là nơi sản xuất thuỷ phi cơ AG600, một phương tiện chiến lược của nhà cầm quyền Bắc Kinh trong kế hoạch thống trị biển Đông.
Theo SCMP, thuỷ phi cơ AG600 có kích thước ngang ngửa máy bay Boeing 737, với chiều dài 36,9 mét và sải cánh 38,8 mét, có khả năng cất cánh và hạ cánh trên mặt nước. Nó có tầm bay hơn 4.000 km cùng tốc độ hành trình khoảng 500 km/giờ và có thể bay liên tục 12 giờ. AG600 còn có thể chở theo tối đa 50 binh lính cùng vũ khí, trang thiết bị để đổ bộ khẩn cấp trên biển, ngoài ra nó còn có thể được dùng để triển khai cứu hộ, tiến hành các hoạt động tuần tra, trinh sát, và chống tàu ngầm.
Nếu xuất phát từ thành phố Tam Á, đảo Hải Nam, AG600 có thể bay đến bất kỳ địa điểm nào trên Biển Đông, theo Tân Hoa Xã.
SCMP cho biết AG600 to hơn và có trọng lượng cất cánh lớn hơn thuỷ phi cơ ShinMaywa US-2 của Nhật Bản, hiện là dòng máy bay hiện đại nhất thế giới. Tuy nhiên, AG600 chỉ có thể hoạt động khi sóng biển cao không quá 2 mét, kém hơn so với khả năng chống sóng 3 mét của US-2. Điều này có thể sẽ hạn chế việc sử dụng AG600 trên Biển Đông do thỉnh thoảng có sóng lớn do gió to hoặc bão.
Truyền hình Trung ương Trung Quốc CCTV cho hay việc tái khởi động lại sản xuất AG600 đang được tiến hành tích cực sau khi các thành viên trong nhóm phát triển của AVIC trở lại làm việc sau dịch bệnh. Hiện thuỷ phi cơ này đang điều chỉnh lại một vài chi tiết và tối ưu hoá thiết kế.
CCTV dẫn lời người đứng đầu căn cứ Chu Hải thuộc AVIC cho biết họ đang sẵn sàng để thử nghiệm bay huấn luyện AG600 trên biển trong năm nay. Các nhà phát triển hiện đang xây dựng bốn mẫu khác nhau. Nếu thử nghiệm thành công, máy bay dự kiến sẽ được hoàn thiện và bàn giao vào năm 2022.
Theo các chuyên gia quân sự, bay trên biển sẽ có nhiều thách thức hơn so với các chuyến bay trên đất liền hay sông hồ do các yếu tố phức tạp của môi trường, khí hậu đại dương. Do đó, việc bay thử nghiệm trên biển sẽ là một cột mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện dòng thuỷ phi cơ này.
Trước đó, AG600 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên trên đất liền ở Chu Hải, tỉnh Quảng Đông vào tháng 12 năm 2017 và chuyến bay thử nghiệm dưới nước đầu tiên trên một hồ chứa ở Kinh Môn vào tháng 10 năm 2018.
Covid-19 và âm mưu của TQ ở biển Đông
Trang tin News.com.au của Australia hôm nay (12/4) có bài báo chỉ ra “động thái quanh co” của chính quyền Trung Quốc tại Biển Đông khi dịch viêm phổi Vũ Hán đang bùng phát toàn cầu.
Bài báo viết: “Trong khi sự chú ý của thế giới đang tập trung vào cuộc khủng hoảng tàn khốc virus corona, Trung Quốc đang triển khai một kế hoạch hung hăng để giành kiểm soát một khu vực trọng yếu”.
Bài báo đề cập đến vụ việc ngày 2/4, tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Quảng Ngãi trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau đó trắng trợn tuyên bố rằng tàu ngư dân đã cố tình tấn công tàu hải cảnh.
Hoa Kỳ đã lên án mạnh mẽ hành vi của Trung Quốc trong vụ việc này. Thậm chí chính phủ Philippines của Tổng thống thân Bắc Kinh Rodrigo Duterte, cũnglên tiếng ủng hộ Việt Nam và gợi nhớ lại vụ việc tương tự xảy ra đối với ngư dân Philippines ở Biển Đông hồi năm ngoái.
Tuy nhiên, giới quan sát nhận định rằng các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông có thể sẽ còn manh động hơn nữa trong bối cảnh Bắc Kinh chịu áp lực quốc tế về tội gây ra đại dịch viêm phổi toàn cầu Covid-19.
Các bức ảnh từ vệ tinh vào ngày 28/3 cho thấy một máy bay vận tải Y-8 của Trung Quốc dường như đang vận chuyển vật tư tới bãi Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa.
Một tài khoản Twitter (@FreeD_West) đăng những hình ảnh này và bình luận: “Trung Quốc đang lợi dụng virus corona Vũ Hán làm vỏ bọc để bành trướng quân sự hơn nữa ở Biển Đông. Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi người: Trung Quốc đang gây chiến với phần còn lại của thế giới”.
Trong khi đó các kênh tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng hoạt động không ngừng. Thời báo Hoàn Cầu tuyên bố: “Hoạt động chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh sẽ không bị ngưng trệ, kể cả khi xảy ra dịch bệnh Covid-19, việc đào tạo các phi công lái chiến cơ của tàu sân bay phải được tiếp tục”.
Mạng lưới tuyên truyền của Trung Quốc đang loan tin rằng việc các thủy thủ Mỹ trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt bị nhiễm virus Vũ Hán đã làm suy yếu khả năng tác chiến của quân đội Hoa Kỳ. Website của quân đội Trung Quốc tuyên bố: “Sự bùng phát của Covid-19 đã làm sụt giảm khả năng triển khai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương”.
Trang News.com.au trích lời của ông Carl Schuster, cựu Giám đốc Trung tâm Tình báo Liên minh Thái Bình Dương nói với CNN: “Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đang lợi dụng những thách thức về virus corona mà Hải quân Mỹ phải đối mặt để cải thiện vị thế của họ ở Biển Đông, thông qua việc xuất hiện và hoạt động ở khu vực này trong khi Mỹ đang bị cản trở”.
Trong khi đó, Hoa Kỳ đang cảnh giác với các động thái của Trung Quốc trong khu vực. Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ vào cuối tháng 3 đã công bố các bức ảnh cho thấy cuộc tập trận bắn đạn thật của tuần dương hạm USS Shiloh ở biển Philippines.
Các diễn biến căng thẳng trên Biển Đông xuất hiện trong bối cảnh chính quyền Trung Quốc đang đối mặt với làn sóng chỉ trích trên thế giới về sự bùng phát của virus Vũ Hán trên toàn cầu. Loại virus corona chủng mới này bị nghi ngờ có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm P4 của chính quyền Trung Quốc ở Vũ Hán.
Mỹ, Anh và nhiều nước trên thế giới đang xem xét phương án kiện chính quyền Trung Quốc về tội gây ra đại dịch toàn cầu, với ước tính số tiền mà Bắc Kinh phải bồi thường thiệt hại có thể lên đến hàng nghìn tỷ USD.
Tiềm lực của Việt Nam
để chống Trung Quốc ở Biển Đông
Thu Hằng
Biển Đông là một trong những trọng tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ
ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp.(Tạp chí phát lần đầu tiên ngày 18/11/2019)
Tránh và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam « kiên quyết » nhưng « khôn khéo » trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận chống Trung Quốc : tăng cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh.
Để đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm 2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên đến 228 tỉ đô la.
Ngoài ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng 482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575 xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay, tầu khu trục.
Vậy Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ, đặc biệt là ở Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon)
PV. Laurent Gédéon
RFI : Xét về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung hoành ?
Laurent Gédéon : Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nếu như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh bất cân xứng với đối thủ.
Chính vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.
Quân đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam. Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.
Theo tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc, Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu quả hơn.
RFI : Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?
Laurent Gédéon : Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ chênh lệch với Trung Quốc.
Hà Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Rõ ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm 2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước châu Âu.
Về câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy, Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách trước đó.
Ngoài ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm 2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị. Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một cách hiệu quả.
RFI : Việt Nam đề ra chính sách « Ba không » (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có nên xem lại chính sách này không ?
Laurent Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.
Dù mang tính mệnh lệnh « Ba không » nhưng thực ra chính sách này không hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ « đối tác ». Có ba kiểu « đối tác », đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên « liên minh quân sự ».
Có thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc. Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.
Nhưng Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên, trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức địa-chính trị riêng.
Và tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng, ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là « dấu chấm hết » cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?
Có thể thấy chính sách « Ba không » không ngăn cản Việt Nam có những thỏa thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế, cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.
RFI : Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam có khả năng giải quyết như thế nào ?
Laurent Gédéon : Trường hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách « sự đã rồi », nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực đuổi tầu Trung Quốc.
Theo quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh « kiềm chế, hợp pháp » trước hành động được coi là « xâm lược » của Bắc Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
0 comments