Tin Biển Đông – 09/04/2020
Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ
đề xuất kế hoạch ngăn chặn TQ trên Biển Đông
Đô đốc Phil Davidson, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (INDOPACOM), vừa trình các đề xuất chi tiết trong kế hoạch chi 20 tỉ USD theo yêu cầu của Quốc hội, với mục đích chính nhằm răn đe hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Thái Bình Dương.Theo trang Defense News, Đô đốc Phil Davidson, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (INDOPACOM), vừa trình các đề xuất chi tiết trong kế hoạch chi 20 tỉ USD theo yêu cầu của Quốc hội, với mục đích chính nhằm răn đe hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Thái Bình Dương. Trước đó, vào tháng 11/2019, Quốc hội đưa ra Đạo luật Ủy nhiệm Quốc phòng cho tài khóa 2020 và được thông qua vào ngày 20/12/2019, trong đó yêu cầu INDOPACOM báo cáo chi tiết về nhu cầu của lực lượng này nhằm đảm bảo chiến lược quốc phòng và đối phó Trung Quốc.
Trong báo cáo vừa trình, ông Davidson đưa ra chiến lược mới mang tên “Chiếm lại ưu thế”, nhấn mạnh “Chiến lược này nhằm khiến các kẻ thù tiềm ẩn thấy rằng bất cứ hành động quân sự phủ đầu nào sẽ vô cùng tốn kém và bị sức mạnh chiến đấu đáng tin cậy làm cho thất bại”. Bên cạnh đó, Đô đốc Phil Davidson cũng đưa ra nhiều kế hoạch răn đe linh hoạt để Lầu Năm Góc lựa chọn, bao gồm cả việc triển khai toàn bộ các chiến dịch nếu cần.
Các khoản chi trong đề xuất được chia làm nhiều nhóm chính, gồm khả năng sát thương của lực lượng liên quân, thiết kế và bố trí lực lượng, tăng cường đồng minh và đối tác, tập trận, thử nghiệm và sáng tạo, đảm bảo hậu cần và an ninh. Theo Đô đốc Davidson, ưu tiên hàng đầu là khả năng sát thương của lực lượng liên quân, gồm 1,67 tỉ USD đầu tư trong 6 năm tới để nâng cao năng lực phòng không trên đảo Guam. Bên cạnh đó, kế hoạch đề xuất tăng cường hỏa lực chính xác tầm xa như Tomahawk tấn công biển và tên lửa không đối đất JASSM-ER của không quân, hệ thống radar cao tần tại Palau giúp phát hiện các mục tiêu trên không và trên biển, radar phòng thủ ở Hawaii và hệ thống radar dựa trên vệ tinh để theo dõi các mối đe dọa toàn cầu. Về hạ tầng, kế hoạch đề xuất hàng loạt khoản đầu tư để dàn trải quân đội Mỹ khắp khu vực, thay vì tập trung tại các căn cứ lớn và dễ trở thành mục tiêu tấn công. Bên cạnh đó, INDOPACOM đề xuất chi 384 triệu USD nhằm tăng cường các mối quan hệ đồng minh và đối tác, vốn là thế mạnh của Mỹ trong khu vực. Trong lĩnh vực này, Đô đốc Davidson đề xuất thành lập một “môi trường đối tác” gồm công nghệ điện toán đám mây, hệ thống phối hợp và kiểm soát an toàn nhằm đảm bảo phối hợp suôn sẻ đối với từng nhiệm vụ cụ thể. Về tập trận, kế hoạch đề xuất chi 2,87 tỉ USD để tiến hành các cuộc tập trận lớn trên toàn khu vực, bao gồm các cuộc tập trận kỹ thuật cao và đa lĩnh vực nhằm tăng cường khả năng phối hợp, nhất là giữa các hệ thống vũ khí của lực lượng Mỹ và đồng minh. Theo ông Davidson, Mỹ cần lực lượng phối hợp với mạng lưới tấn công chính xác ở Thái Bình Dương, tăng cường bố trí lực lượng nhằm đảm bảo sự ổn định trong khu vực và “duy trì các chiến dịch chiến đấu” nếu cần thiết.
Giới quan sát cho rằng kế hoạch của INDOPACOM, gồm khoản chi lên đến 20 tỉ USD trong 6 năm tới, là nền tảng cơ bản để phát triển “phiên bản Thái Bình Dương” của Sáng kiến Răn đe ở châu Âu do Bộ Quốc phòng Mỹ đưa ra nhằm đối phó Nga. Sáng kiến này tập trung đối phó Trung Quốc.
Được biết, Đạo luật Ủy nhiệm Quốc phòng có nhiều điểm nổi bật về chủ trương, chính sách quốc phòng của Mỹ trong thời gian tới.
Đầu tiên, Mỹ sẽ tăng chi tiêu quốc phòng. Theo đó, NDAA quy định chi tiêu quốc phòng của Mỹ dự kiến được Quốc hội Mỹ thông qua vào cuối tháng này, trị giá 738 tỉ USD – bao gồm 658,4 tỉ USD dành cho Bộ Quốc phòng và các chương trình an ninh quốc gia của Bộ Năng lượng; 71,5 tỉ USD dành cho các cuộc chiến tranh đang diễn ra và 5,3 tỉ USD dành cho quỹ khẩn cấp đối phó thảm họa thiên tai và thời tiết cực đoan. Dự luật cho phép chi 1 tỷ USD để mua thêm 12 máy bay chiến đấu F-35A, đồng thời ủy quyền chi 440 triệu USD để mua lại số máy bay chiến đấu F-35 mà Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng ban đầu, hỗ trợ tiền vốn cho việc phát triển máy bay chiến đấu tầm xa B-21, hỗ trợ yêu cầu ngân sách mua 8 máy bay F-15EX; cho phép chi thêm 75,6 triệu USD cho chương trình máy bay tấn công tầm xa trong tương lai; hỗ trợ gần 1 tỷ USD cho dự án chiếm ưu thế trên không thế hệ tiếp theo (NGAD) của Không quân… Ngoài ra, NDAA còn quy định tăng 3,1% tiền lương cho quân đội – mức tăng lớn nhất trong 10 năm.
Thứ hai, lần đầu thành lập lực lượng không gian. Nhánh mới trong quân đội Mỹ ở đây là Lực lượng không gian (Space Force – USSF). Lần đầu tiên trong lịch sử một nhánh riêng dành cho lĩnh vực không gian/vũ trụ của Mỹ ra đời, dưới sự bảo trợ của Bộ tư lệnh Không gian không quân (Space Command Air Force). Lực lượng không gian sẽ là nhánh quân đội mới nhất của Mỹ và là lực lượng quân đội mới đầu tiên kể từ khi không quân Mỹ hoạt động vào năm 1947. Lực lượng không gian là quân chủng thứ sáu của quân đội Mỹ, có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của Mỹ trong không gian trước các mối đe dọa từ Nga và Trung Quốc. Được biết, lực lượng không gian sẽ là một phần của không quân, hoạt động theo cấu trúc tương tự mối quan hệ giữa thủy quân lục chiến Mỹ với hải quân và sẽ do một vị tướng bốn sao chỉ huy tác chiến.
Thứ ba, đánh giá đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc. NDAA yêu cầu chính phủ Mỹ đánh giá các khoản đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc, bao gồm các dự án thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc hoặc các dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật số hoặc vật lý do chính phủ Trung Quốc kiểm soát và sự liên quan của các dự án này đến các mục tiêu quân sự và an ninh của Trung Quốc. Đánh giá tác động liên quan của các dự án này đối với lợi ích của quân đội hoặc chính phủ Mỹ. Dự luật giải thích thêm rằng các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc mà Mỹ cần đánh giá là các dự án cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng hoặc công nghệ thông tin mà chính phủ Trung Quốc sở hữu, kiểm soát, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp hoặc trợ cấp. Ngoài ra, NDAA cũng xem xét các vấn đề liên quan Hoa Vĩ và ZTE. NDAA đề nghị chính phủ Mỹ cần chuẩn bị báo cáo để xem xét liệu công ty công nghệ ZTE có tuân thủ thỏa thuận hòa giải đạt được giữa ZTE và Bộ Thương mại Mỹ vào ngày 8 tháng 6 năm 2018 hay không. NDAA yêu cầu trong vòng 180 ngày kể từ khi ban hành dự luật và hàng năm sau đó, tổng thống phải đệ trình lên Quốc hội một báo cáo về sự tuân thủ của ZTE Corporation và công ty con ZTE Kangxun. NDAA còn hạn chế Bộ Thương mại Mỹ loại bỏ Huawei khỏi danh sách đen.
Thứ tư, hỗ trợ cho Đài Loan. NDAA quy định, Mỹ cần tiếp tục tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh với Đài Loan để giúp đỡ Đài Loan phát triển lực lượng phòng thủ hiện đại hùng mạnh, cần thiết và duy trì khả năng tự vệ đầy đủ của Đài Loan. Mỹ cần tiếp tục thông qua bán vũ khí cho nước ngoài, thương mại trực tiếp và hợp tác công nghiệp để hỗ trợ Đài Loan mua các vũ khí phòng thủ thích hợp. Mỹ cần cải thiện khả năng dự báo bán vũ khí cho Đài Loan thông qua việc xem xét và đáp ứng kịp thời các yêu cầu của Đài Loan đối với sản phẩm và dịch vụ quốc phòng, kịp thời thông báo cho Quốc hội và tuân thủ các quy trình giám sát và thẩm định của Quốc hội. Trong vòng 180 ngày kể từ khi NDAA có hiệu lực, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cần đệ trình báo cáo lên Quốc hội. Nội dung của báo cáo cần đề cập đến tính khả thi của việc thành lập một nhóm làm việc cấp cao, liên ngành của Mỹ để phối hợp ứng phó với các vấn đề an ninh mạng mới nổi; Bộ Quốc phòng thảo luận về kế hoạch hợp tác an ninh hiện tại và tương lai cho mạng liên lạc Mỹ – Đài Loan; thảo luận về những trở ngại gặp phải trong việc thiết lập, thực hiện hoặc thực hiện các thỏa thuận liên quan cho các hoạt động an ninh mạng Mỹ – Đài Loan, bất kỳ vấn đề nào khác mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho là cần thiết phải được đưa vào.
Thứ năm, ủng hộ người dân Hồng Công. NDAA yêu cầu Trung Quốc cần tuân thủ đầy đủ các cam kết của mình trong Tuyên bố chung Trung – Anh năm 1984 cho phép người Hồng Kông cai quản Hồng Kông với quyền tự trị cao; Trung Quốc cần tuân thủ Luật cơ bản Hồng Kông năm 1997 và ngay lập tức ngừng can thiệp vào các vấn đề chính trị và pháp lý của Hồng Kông. NDAA kêu gọi chính phủ Hồng Kông đáp ứng yêu cầu của người biểu tình; yêu cầu Mỹ cần cùng các nước có chung chí hướng hỗ trợ
người dân Hồng Kông, cũng cần khuyến khích Trung Quốc áp dụng các hành động có trách nhiệm hơn, nếu Trung Quốc và chính quyền Hồng Kông tiếp tục vi phạm hiệp định cơ bản về tự trị Hồng Kông, họ cần phải chịu hậu quả. NDAA cũng chỉ ra rằng, nếu chính phủ Trung Quốc sử dụng vũ lực chống lại những người phản kháng ở Hồng Kông, Quốc hội khuyến nghị Mỹ nên nhanh chóng hành động, bao gồm đánh giá lại sự đối xử đặc biệt với Hồng Kông theo Đạo luật Chính sách Hồng Kông năm 1992 và các luật khác của Mỹ; cùng các quốc gia đồng minh khác hành động để buộc Trung Quốc trả giá, bao gồm áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quan chức và các sĩ quan quân đội Trung Quốc, hạn chế đi lại và áp dụng các biện pháp khác. Dự luật yêu cầu trong vòng 45 ngày kể từ khi ban hành luật này, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cần tìm và ký hợp đồng với một trung tâm nghiên cứu và phát triển do liên bang tài trợ để tiến hành nghiên cứu độc lập về đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Bắc Cực.
http://biendong.net/bi-n-nong/34007-bo-tu-lenh-an-do-duong-thai-binh-duong-cua-my-de-xuat-ke-hoach-ngan-chan-tq-tren-bien-dong.html
Lập luận cơ sở pháp lý
để TQ yêu sách “chủ quyền” trên Biển Đông
Trung Quốc đã vận dụng không ít những nguyên tắc từ luật pháp quốc tế, như quyền phát hiện dưới góc nhìn của luật quốc tế theo thời điểm, những sự việc thể hiện năng lực làm chủ và sự công nhận từ quốc tế để khẳng định “chủ quyền” ở Hoàng Sa.Thứ nhất, lập luận của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào những hành động khai thác của ngư dân. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế ghi nhận chủ thể của việc thụ đắc lãnh thổ phải là nhà nước mà những hành động khai thác của ngư dân được Trung Quốc viện dẫn chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với sự chiếm hữu cũng như với ý định khẳng định chủ quyền. Trong phán quyết ngày 30/6/1865 của Tòa Trọng Tài quốc tế về tranh chấp trên đảo Aves giữa Venezuela và Vương quốc Netherland, Tòa cũng nhận định là: “Việc chiếm cứ do các tư nhân không hành động nhân danh chính phủ của họ mà thực hiện vì một lợi ích cá nhân không tạo thành một sự chiếm hữu”. Hơn nữa, phải khẳng định là tiến hành các hoạt động khai thác xung quanh quần đảo Hoàng Sa không chỉ có ngư dân của mỗi nước Trung Quốc mà còn có các quốc gia khác của Đông Nam Á.
Thứ hai, các hoạt động mà Trung Quốc cho là hành xử chủ quyền thì không đáp ứng đủ các yếu tố hòa bình, công khai và liên tục. (1) Sự kiện hải quân nhà Bắc Tống đi tuần tra vùng biển “Cửu Nhũ Loa Châu” thì vị trí địa lý được mô tả lại rất mơ hồ, không có bằng chứng, phần nhiều mang tính suy luận. Tính suy luận được thể hiện rất rõ ngay trong ngôn từ của văn bản Sách trắng 1980 với dòng chữ: “Cửu Nhũ Loa Châu ngày nay là quần đảo Tây Sa”. Một bằng chứng mà do suy luận thì giá trị của bằng chứng đó không thể đủ để thuyết phục được. Trung Quốc lại chưa thể chứng minh được liệu rằng “Cửu Nhũ Loa Châu” có thật là quần đảo Tây Sa hay không? (2) Việc đo đạc thiên văn đầu nhà Nguyên có đề cập đến 27 địa điểm nhưng có cả những điểm như Cao Ly (thuộc Triều Tiên) và Thiết Lặc (thuộc vùng Siberia). Nhận thấy rằng, trong 27 điểm đo đạc thiên văn thì đã có ít nhất hai điểm rất rõ ràng là không thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, thì làm sao có thể lấy sự kiện này làm căn cứ khẳng định chủ quyền tại điểm “đo ở cực Bắc Nam Hải ra đến 15 độ” (có thể là quần đảo Hoàng Sa)? Cho dù sự thật về điểm “đo ở cực Bắc Nam Hải ra đến 15 độ” đó có là quần đảo Hoàng Sa đi nữa thì hoàn toàn có cơ sở khi cho rằng đó cũng là một điểm thuộc nước ngoài như hai điểm đã được xác định rõ ở Cao Ly và Thiết Lặc. Và quan trọng hơn hết là việc tiến hành nghiên cứu khoa học chưa từng là căn cứ xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ. Cũng theo tư tưởng này mà ngày nay đối với những vùng là “di sản chung của nhân loại” thì các quốc gia hoàn toàn có thể thực hiện nghiên cứu khoa học và đương nhiên không kéo theo bất kỳ hệ quả nào về việc xác lập chủ quyền cho quốc gia có thực hiện nghiên cứu khoa học tại vùng đó. (3) Các địa danh mà phó tướng thủy sư Ngô Thăng tiến hành tuần biển thì theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Thao, các địa danh đó là các đảo ven bờ lục địa Trung Hoa hoặc lân cận đảo Hải Nam, hoàn toàn không đề cập đến Tây Sa hay Nam Sa. (4) Suốt từ thế kỷ XVII cho tới những năm đầu thế kỷ XIX trước lúc Việt Nam trao các quyền quốc gia cho Pháp, trong khi Việt Nam có những bằng chứng xác đáng về việc tổ chức khai thác mang tính chất nhà nước với các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải thì Trung Quốc lại không có bất kỳ phản ứng nào, việc này rất bất lợi cho Trung Quốc vì có thể bị hiểu là “sự đồng ý ngầm” (acquiescence) vì không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng như đã đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam. (5) Cuộc hành quân chớp nhoáng (24 giờ) của Đô đốc thủy sư Lý Chuẩn có thể bị xem là hành động muộn màng vì Hoàng Sa đã bị đặt dưới sự quản lý có hiệu quả của triều đình nhà Nguyễn (Việt Nam). Mặt khác, chính phủ bảo hộ của triều Nguyễn (Pháp) lúc bấy giờ cũng đã có những hành động thiết thực và cụ thể như ra chiếm đóng, xây dựng quần đảo. Cũng nói thêm, cuộc hành quân này của Lý Chuẩn đã bị giải thích dưới nhiều góc độ khác nhau và gây ra mâu thuẫn trong lập luận của chính nước này khi cho rằng đây chính là hành động xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ vô chủ với những hành động như treo cờ và bắn một loạt súng đại bác. Vì trên thực tế năm 1909 là mốc quan trọng trong yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, nhiều bản đồ, ghi chép của Trung Quốc về Hoàng Sa xuất hiện nhiều hơn kể từ sau sự kiện này. Nếu lập luận theo hướng sự kiện này là dấu mốc Trung Quốc xác lập chủ quyền thì hoàn toàn mâu thuẫn vì phủ nhận trực tiếp “chủ quyền lâu đời” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. (6) Sự thật không thể chối cãi được, Trung Quốc đã hai lần dùng vũ lực để chiếm đóng trên thực tế quần đảo này vào năm 1956 và 1974. Cả hai sự kiện này đều xảy ra sau khi luật quốc tế hiện đại ra đời (1945) với nguyên tắc “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Một sự chiếm đóng quân sự khi bị tố cáo như vậy sẽ không bao giờ và bằng bất kỳ cách nào có thể chuyển thành một danh nghĩa có giá trị và được công nhận.
“Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực” là một trong 7 nguyên tắc cơ bản và là nền tảng của luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này đã có quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương LHQ 1945: “Tất cả các Thành viên phải phòng tránh việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào hoặc dưới bất kỳ hình thức nào mà không phù hợp với những mục tiêu của LHQ” và được tái khẳng định lại tại Tuyên bố 1970: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của việc thụ đắc bởi một quốc gia khác bằng việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Không một sự chiếm đóng lãnh thổ do việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực được thừa nhận là hợp pháp”. Từ đó cho thấy, nguyên tắc này đóng một vai trò tối quan trọng trong luật pháp quốc tế, đi ngược lại nguyên tắc này là đi ngược lại với luật pháp quốc tế, đó là một sự vi phạm nghiêm trọng và hết sức nguy hiểm cho mục đích duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Năm 1956, Trung Quốc đã lợi dụng khoảng trống khi Pháp vừa rút quân mà đem quân đội chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Tuy rằng không có xảy ra giao tranh nhưng hành động đem quân này của Trung Quốc cũng thể hiện được khả năng cho một cuộc chiến. Vấn đề đặt ra là nếu Trung Quốc đã có chủ quyền từ lâu đời thì tại sao không dùng biện pháp pháp lý đệ đơn lên các thiết chế tài phán trong nước này là một trong năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An LHQ? Trong khi tính đến thời điểm năm 1956 thì đã có đến 7 vụ tranh chấp lãnh thổ đã được các thiết chế tài phán giải quyết. Thậm chí vào năm 1937, Trung Quốc đã từ chối đề nghị của Pháp về việc đưa vấn đề ra trọng tài.
Còn đối với năm 1974, hành động dùng chiến tranh để giành lấy sự kiểm soát lãnh thổ là vi phạm hết sức nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Trong khi tính đến năm 1974 đã có 13 vụ tranh chấp lãnh thổ được giải quyết bằng con đường hòa bình. Đây là một bất lợi rất lớn cho Trung Quốc, điều này làm giảm nghiêm trọng sức thuyết phục của các lập luận về chủ quyền.
Về sự công nhận quốc tế: Sự công nhận quốc tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nhất là đối với những tranh chấp lãnh thổ. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy các lập luận về sự công nhận quốc tế của Trung Quốc tồn tại một số điểm không thỏa đáng sau:
Thứ nhất, đối với Hiệp ước Pháp – Thanh 1887. Hiệp ước này không có ý nghĩa trong vấn đề chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Đây là một điều ước quốc tế nên cần được hiểu theo đúng tinh thần của một điều ước quốc tế. Căn cứ theo Điều 31 Công ước Vienne về Luật Điều ước quốc tế 1969 thì một điều ước cần được hiểu đúng với nghĩa gốc được thể hiện bằng từ ngữ trong văn bản trong hoàn cảnh của nó và dưới ánh sáng của đối tượng và mục tiêu của hiệp ước. Đồng thời Điều 32 Công ước này cho phép viện dẫn đến các công việc trù bị và các hoàn cảnh ký kết hiệp ước trong trường hợp khi áp dụng các nguyên tắc giải thích ở Điều 31 mà lại: (a) đem đến ý nghĩa không nhất quán, không chắc chắn hay (b) dẫn đến những kết quả vô lý. Từ đó, đối tượng và mục tiêu của Hiệp ước Pháp – Thanh 1887 chỉ là hoạch định đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc và được thể hiện ngay ở tên của Hiệp ước: “Convention relative à la delimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin”. “Tonkin” trong tiếng Pháp có nghĩa là miền Bắc Việt Nam. Như vậy, giá trị hiệu lực về không gian của văn bản này là vùng Bắc Bộ của Việt Nam chứ không bao trùm quần đảo Hoàng Sa.
Thứ hai, đối với sự công nhận của Pháp: Trung Quốc đã thực sự không trình ra được chứng cứ chứng minh cho sự tồn tại trên thực tế của các lời nói từ người đứng đầu Nhà nước Pháp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Aristide Briand như đã trích dẫn trong Công hàm A/68/956. Trong thời kỳ đô hộ Việt Nam, thái độ của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa có sự khác biệt rõ rệt trong khoảng thời gian trước và sau những năm 1930. Sự lơ là đối với việc thực thi chủ quyền được giải thích là vì Pháp chưa chắc chắn về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Thái độ đó đã được thay thế bằng thái độ tích cực đưa quân quản lý, khai thác và xây dựng quần đảo kể từ thời điểm Toàn quyền Đông Dương Pasquier gửi một bức công điện cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa để khẳng định Việt Nam có đủ căn cứ để xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và tiếp tục “thực hiện cái quyền đã tồn tại trước đó”. Từ đó cho thấy rằng, Pháp tuy có thái độ lơ là trong việc thực thi chủ quyền nhưng cũng chưa hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc như nước này đã lập luận và khi đã chắc chắn được chủ quyền của quốc gia mình đang bảo hộ thì Pháp đã có những động thái rất tích cực trong việc thay thế cho triều đình An Nam tiếp tục hành xử chủ quyền.
Thứ ba, đối với sự công nhận của Nhật Bản: Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Postdam và Văn bản đầu hàng của Nhật Bản trong Thế chiến thứ II không hề trao cho Trung Quốc chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Điều này được thể hiện rất minh bạch trong từ ngữ của những văn bản trên.Tuyên bố Cairo ghi nhận rằng: “Nhật Bản sẽ từ bỏ tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã xâm chiếm kể từ đầu Thế chiến thứ I năm 1914; bao gồm các lãnh thổ mà Nhật Bản đã xâm lược của Trung Quốc, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trao trả lại cho Trung Quốc. Nhật Bản sẽ từ bỏ tất cả các lãnh thổ khác đã chiếm được nhờ vũ lực và lòng tham.
Tuyên bố Postdam là một sự tái khẳng định lại nội dung của Tuyên bố Cairo: “Nội dung của Tuyên bố Cairo sẽ được thực thi và chủ quyền của Nhật Bản sẽ được giới hạn lại trong các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và những đảo nhỏ như đã xác định”. Và văn bản đầu hàng của Nhật Bản lại là sự cam kết thực hiện các yêu cầu của Tuyên bố Postdam: “Chúng tôi, sau đây, cam kết với Nhật hoàng, với Chính phủ Nhật Bản và với bên thắng cuộc sẽ thực hiện các yêu cầu của Tuyên bố Postdam với thiện chí”.
Như vậy, cả 3 văn bản trên không hề có nội dung nào là trao cho Trung Quốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Hơn nữa, trong Tuyên bố Cairo, khi ngắt rời hai cụm “lãnh thổ mà Nhật Bản đã xâm lược của Trung Quốc” và “lãnh thổ khác đã bị xâm chiếm bằng vũ lực và lòng tham”, Tuyên bố này đã ngầm thừa nhận các “lãnh thổ khác” (có cả quần đảo Hoàng Sa) không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Những lãnh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà Nhật Bản chiếm đóng đã được liệt kê rất rõ là chỉ bao gồm: Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ.
Việc không đề cập đến yêu sách đối với quần đảo Hoàng Sa một cách rõ ràng trong tuyên bố Cairo, nhất là khi Trung Quốc là một bên tham gia Tuyên bố, khi đó Thống chế Tưởng Giới Thạch đã đích thân có mặt tại các cuộc hội đàm kéo dài nhiều ngày ở Cairo. Việc không nói tới các quần đảo trong phần này của Tuyên cáo Cairo năm 1943 không thể hiện kết quả của một sự tình cờ, không có một bảo lưu cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề các lãnh thổ này. Như vậy, có thể kết luận là lập luận về việc Nhật Bản “trao trả” lại chủ quyền đối với Hoàng Sa cho Trung Quốc là không có căn cứ.
Từ những vấn đề trên cho thấy, các căn cứ, lập luận pháp lý để Trung Quốc đưa ra các yêu sách, đòi hòi về cái gọi là “chủ quyền” trên Biển Đông không phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Không những vậy, hành động của Trung Quốc còn đi ngược lại các quy định liên quan và bị cộng đồng quốc tế chỉ trích, lên án mạnh mẽ.
http://biendong.net/bien-dong/34004-lap-luan-co-so-phap-ly-de-tq-yeu-sach-chu-quyen-tren-bien-dong.html
Hải quân Việt Nam có năng lực,
trình độ giám sát toàn bộ khu vực Biển Đông
Để theo dõi sát tình hình nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm khu vực Biển Đông, Hải quân Việt Nam đã bố trí hệ thống radar có thể bao quát toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, có thể phát hiện các vụ tấn công bằng tên lửa từ xa.Theo các chuyên gia quân sự, các radar giám sát thường hoạt động theo nguyên lý truyền sóng bức xạ điện từ, nhưng sóng này lại có xu hướng đi theo đường thẳng. Trong khi đó, Trái Đất lại có dạng hình cầu, điểm giao nhau giữa đường thẳng của sóng radar và hình cầu của Trái Đất được gọi là “giới hạn đường chân trời”. Điều đó đồng nghĩa với việc các trạm radar cảnh giới bố trí từ mặt đất sẽ không thể phát hiện được các mục tiêu di chuyển ngoài giới hạn đường chân trời này, nhất là các mục tiêu di chuyển trên mặt biển nơi mà giới hạn đường chân trời được phát huy tối đa.
Một radar hải quân truyền thống nếu được đặt ở độ cao 10 m sẽ có tầm phát hiện là 13 km, nếu tăng độ cao lên 20 m thì tầm phát hiện là 40 km. Chính vì vậy mà các đài radar đều được đặt lên giá cao, đồng thời chọn vị trí trên các đỉnh núi. Điều này cho phép tăng tầm phát hiện mục tiêu. Tuy nhiên, với Biển Đông, khoảng cách cần quan sát lên đến hàng nghìn km, do đó, không thể dựa hoàn toàn vào vị trí địa lý được. Cần phải trang bị loại radar có khả năng phát hiện mục tiêu ngoài đường chân trời.
Nhằm khắc phục điểm yếu “chết người” của các hệ thống radar cảnh giới giám sát bờ biển, các nhà khoa học trên thế giới đã phát triển một công nghệ radar mới với khả năng truyền sóng radar đi theo chiều cong của Trái đất. Loại radar này cho phép phát hiện được các mục tiêu di chuyển trên mặt biển vượt radar ngoài giới hạn đường chân trời. Coast Watcher 100 mà Việt Nam có trong trang bị là một trong những hệ thống radar làm được điều đó.
Hệ thống radar Coast Watcher 100 (CW-100) được thiết kế cho nhiệm vụ giám sát bờ biển, phát hiện sớm từ xa các tàu thuyền lạ xâm nhập vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế. Hệ thống do Tập đoàn Thales (Pháp) sản xuất và được đánh giá là một trong hệ thống radar giám sát biển hiện đại hàng đầu thế giới. Để vượt “giới hạn đường chân trời”, Coast Watcher 100 sử dụng sóng truyền bề mặt dựa vào sóng đất với bước sóng khoảng 10m. Công nghệ này cho phép sóng radar truyền đi theo đường cong của Trái đất, đồng nghĩa với giới hạn đường chân trời trong trường hợp này bị loại bỏ. Hệ thống anten của Coast Watcher 100 thiết kế hoàn toàn từ sợi carbon nên có độ bền rất cao. Nó có thể cung cấp khả năng giám sát bờ biển 24 giờ/ngày, liên tục trong 365 ngày mà không cần bảo trì. Cụ thể, nó có thể phát hiện các mục tiêu như: tàu thuyền nhỏ tàng hình có diện tích phản hồi sóng radar (RCS) 1m2 ở cự ly 45km; phát hiện máy bay tuần tra hàng hải có diện tích phản hồi radar 25m2 bay ở độ cao 170m, cự ly 90km; tàu cá có RCS 50m2 chiều cao 3m trên mực nước biển từ cự ly 145km; tàu chiến có RCS 10.000m2, chiều cao 10m trên mực nước biển từ cự ly 170km.
Hiện nay, để theo dõi sát tình hình nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm khu vực Biển Đông, Hải quân Việt Nam đã bố trí hệ thống radar có thể bao quát toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, có thể phát hiện các vụ tấn công bằng tên lửa từ xa. Theo đó, đầu tiên mạng lưới radar hải quân hiện nay của Việt Nam được bố trí ở ở các đỉnh núi sát bờ biển, có những đỉnh núi độ cao đạt từ hàng trăm tới hàng nghìn mét. Với độ cao này, có thể nói các radar Việt Nam có thể kiểm soát được hầu hết diện tích Biển Đông. Thứ hai là bố trí các đài radar tại các đảo trên biển, từ các đảo này sẽ thu nhận tín hiệu và truyền thông tin về các trung tâm chỉ huy. Không chỉ các đảo gần bờ mà ngay quần đảo Trường Sa cũng đã được trang bị các đài radar hải quân. Thứ ba là bố trí các tàu thuyền có khả năng theo dõi tàu đối phương, từ đó chuyển thông tin về trung tâm. Trong một biên đội tàu tác chiến luôn có những tàu này. Thứ tư là dùng máy bay tuần tra, trinh sát. Hiện nay, Việt Nam đã tăng cường lực lượng máy bay này với các loại máy bay M-28, thủy phi cơ DHC-6, CASA-212, trực thăng Ka-28.
Tuy nhiên, các đài radar dù hiện đại đến đâu cũng không thể dùng dẫn bắn hoàn toàn cho tên lửa chống hạm mà chỉ dùng để chỉ thị vùng có mục tiêu. Vì thế, radar trên tên lửa phải đảm nhận vai trò dẫn tên lửa tìm đến mục tiêu. Thế nhưng, công suất của các tên lửa tương đối nhỏ so với các đài radar mặt đất. Rõ ràng đây là một bài toán khó giải quyết. Một số tên lửa giai đoạn đầu sẽ bay cao để xác định sơ bộ mục tiêu, sau đó sẽ tắt radar. Yakhont là loại tên lửa sử dụng nguyên lý này. Tên lửa chống hạm bay cực thấp để tránh bị phát hiện bởi radar và hệ thống đánh chặn của đối phương. Ngược lại, radar trên tên lửa cũng không được bật quá sớm, mà chỉ trong giai đoạn tiếp cận mục tiêu (tầm dưới 30 km) mới được bật để tránh bị đối phương phát hiện. Cần lưu ý đặc điểm của tàu chiến đối phương là mục tiêu di động nên trong quá trình bay của tên lửa, có thể mục tiêu đã ra khỏi vùng dự đoán ban đầu.
Ví dụ tên lửa Kh-35E tầm bắn 130 km, tốc độ hành trình là Mach 0.85 thì mất khoảng 7 phút để đạt tầm 130 km. Nếu tàu địch có vận tốc tầm 30 km/h thì sẽ cách vị trí ban đầu 3,5 km. Rõ ràng hai vị trí ban đầu và mới cách nhau rất xa. Chưa kể các tên lửa chống hạm có tầm bắn tới 550 km như P-35. Để giải quyết bài toán này, khi radar tự dẫn trên tên lửa được bật, nó sẽ tiến hành sục sạo lại và lựa chọn mục tiêu của mình. Tuy nhiên, góc quét của radar khá nhỏ nên để tăng vùng quan sát, tên lửa sẽ tiến hành “đánh võng” trên quỹ đạo. Với góc quét giả dụ là 15 độ, nếu tiến hành đánh võng thêm 15 độ sang hai bên thì phạm vi quan sát của radar sẽ là 45 độ. Để tiến hành lựa chọn mục tiêu, bộ phận tính toán trên khoang sẽ xử lý dữ liệu từ radar. Về nguyên tắc sẽ chọn mục tiêu quan trọng hơn, đặc điểm các loại mục tiêu khác nhau đã được nạp vào máy tính trên khoang tên lửa làm dữ liệu để so sánh.
Với các tên lửa hiện đại như Yakhont, chiến thuật của tên lửa là hết sức linh hoạt. Khi tiến hành bắn loạt, một quả sẽ bay cao, chỉ thị mục tiêu cho hai quả bay thấp. Các tên lửa sẽ được phân công các mục tiêu khác nhau để tránh trùng lặp. Đối với mục tiêu cỡ lớn, sẽ sử dụng nhiều tên lửa vào một mục tiêu để tăng xác suất tiêu diệt. Chiến thuật của Yakhont được mệnh danh là “chiến thuật bầy sói”, một đỉnh cao của tên lửa chống hạm. Ngay cả tên lửa thế hệ cũ như P-35 cũng có khả năng này. Tên lửa P-35 có độ cao hành trình từ 100-400 m, hoặc có thể bay cao từ 4.000-7.000 m trong trường hợp dùng radar của tên lửa để dẫn đường cho các tên lửa khác. Ở pha cuối, tên lửa hạ thấp độ cao xuống dưới 100 m trước khi lao đến mục tiêu.
Như vậy, có thể thấy rằng với cách bố trí các phương tiện đã có cộng với các phương tiện mới được trang bị như radar ngoài đường chân trời, máy bay trinh sát và đặc biệt là chiến thuật linh hoạt của tên lửa thì bài toán đường chân trời của Hải quân Việt Nam hoàn toàn đã được giải quyết. Hệ thống radar và tên lửa Việt Nam có thể bao quát được khắp mặt Biển Đông.
http://biendong.net/bien-dong/34009-hai-quan-viet-nam-co-nang-luc-trinh-do-giam-sat-toan-bo-khu-vuc-bien-dong.html
Thấy gì qua việc
Việt Nam ‘lặng lẽ’ xây dựng ở Trường Sa?
Mỹ HằngBBC, BangkokViệt Nam được cho là đang ‘lặng lẽ’ và ‘chậm rãi’ xây dựng quanh và trong quần đảo Trường Sa. Động thái này nói lên điều gì?
“Tôi cho rằng cần đặt việc này trong đúng bối cảnh. Đó là việc Việt Nam, thực ra, đã sở hữu một số thực thể ở Trường Sa từ trước năm 2002, thời điểm Trung Quốc và ASEAN kí kết Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC),” Giáo sư Carl Thayer nói với BBC Tiếng Việt hôm 11/4.
‘Cuộc chơi công bằng’
“Theo DOC, các bên tham gia cam kết không tiến hành chiếm bất cứ các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ, v.v… nào ở Biển Đông,” Giáo sư Carl Thayer nói với BBC từ Australia.
“Trường hợp Việt Nam, nước cũng tham gia DOC, thực tế đã tiến hành việc chiếm hữu một số thực thể ở đây trước năm 2002.”
Bài viết của Asia Maritime Transparency Initiative (AMTI) hôm 8/4 cho hay Việt Nam đã chiếm hữu 49 tiền đồn trải rộng trên 27 vị trí quanh quần đảo Trường Sa và đang tiếp tục nâng cấp các công trình ở đây.
Các việc xảy ra sau vụ chặn bãi cát đảo Thị Tứ
Mỹ muốn hợp tác chiến lược chặt chẽ hơn với VN
Mỹ tập trận với Đài Loan và ‘thuê đảo’ ở Trường Sa?
Tàu chiến Mỹ tới sát vùng Philippines-TQ tranh chấp
Giáo sư Carl Thayer nhận định:
“Việc AMTI mới đây đưa ra báo cáo công khai về tình hình xây dựng của Việt Nam tại Trường Sa có thể khiến nhiều người nhảy dựng lên rằng “các nước khác cũng đang làm y như Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, ảnh vệ tinh cho thấy các khu vực mà Trung Quốc đang quân sự hóa trên Biển Đông chiếm đa số diện tích. Trong khi một phần rất nhỏ còn lại là của các nước khác.”
“Tôi cho rằng báo cáo AMTI thực ra muốn đưa ra cái nhìn công bằng hơn về tình hình ở Biển Đông, với một bên là đối trọng Trung Quốc. Cụ thể hơn, việc xây dựng của Việt Nam tại Trường Sa – như mô tả trong báo cáo – là bình thường, với các công trình rất nhỏ và khiêm tốn. Không thể nào so sánh được với quy mô xây dựng của Trung Quốc.”
“Báo cáo của AMTI nói rằng Việt Nam đang hoàn thiện đường băng dài 1.300m, và cho lắp đặt radar cho phép Việt Nam có thể thu phát các tín hiệu liên lạc từ các tàu, thuyền của Trung Quốc. Tôi cho rằng đây là một cuộc chơi công bằng.”
“Tôi không cho rằng có nước nào sẽ phật lòng về động thái này của Việt Nam. Việt Nam đã ở đó từ trước 2002. Thực tế là Việt Nam đã hiện diện tại một số vị trí ở Biển Đông từ trước Giải phóng Miền Nam, và đã có lịch sử đánh bắt, khai thác cá tại ngư trường này.”
“Việt Nam đã đưa người tới các khu vực đó sinh sống, lập gia đình, sinh con cái, mở trường học. Và không có vấn đề gì từ đó tới nay. Việt Nam chưa thực hiện hành động nào đe dọa an ninh khu vực.”
“Mà giả như những việc Việt Nam đang làm được cho là gây nguy cơ cho an ninh khu vực, thì thử nói xem những cái mà Trung Quốc đang tiến hành là gì?”
Luật sư Hoàng Việt, chuyên nghiên cứu về Biển Đông từ TP Hồ Chí Minh thì cho rằng việc xây dựng ở Trường Sa như Việt Nam đang tiến hành “không làm thay đổi tính chất pháp lý cho các yêu sách về chủ quyền của Việt Nam.”
“Vụ Philippines kiện Trung Quốc mà Toà Trọng tài ra phán quyết năm 2016 khẳng định điều này. Theo đó, mọi hành động nhằm thay đổi tính chất pháp lý của các thực thể trên Biển Đông sau thời điểm tranh chấp sẽ không được các toà quốc tế chấp nhận. Ngoài ra, việc bồi lấp các thực thể cũng không biến nó thành “đảo” nếu nó là đá hoặc bãi lúc chìm lúc nổi được.”
“Lần này chưa thấy Trung Quốc lên tiếng. Tuy vậy, họ cũng đã có động thái khi thông báo giàn khoan Đông Phương 13-2 sẽ xuất hiện ở khu vực Vịnh Bắc Bộ.”
“Trong khi với mức độ xây dựng nhỏ, chủ yếu với mục đích tăng cường khả năng phòng vệ và cứu hộ, Việt Nam không làm cho các quốc gia khác lo ngại như với mức độ quân sự hóa của Trung Quốc.”
‘Quy mô khiêm tốn’
Báo cáo của AMTI mô tả khá chi tiết các bước xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam từ năm 2015 tới nay. Báo cáo này cũng cho hay quy mô và cách thức mà Việt Nam tiến hành rất ‘từ từ’ và ‘khiêm tốn’.
Hầu hết các khu vực mà Việt Nam cho tiến hành xây dựng không nằm trực tiếp trên các đảo nhỏ tự nhiên như Trường Sa và Phan Vinh, mà ở các rạng đá thấp hơn mực thủy triều và ở các bãi ngập nước, theo bài báo trên AMTI.
Các động thái này cho thấy Việt Nam không cố gắng tham gia vào việc quân sự hóa quy mô lớn tại quần đảo Trường Sa như Trung Quốc; ví dụ như không có dấu hiệu xây dựng các cơ sở để chứa máy bay tấn công, theo phân tích của AMTI.
Các cơ sở mà Việt Nam xây dựng ở đây dường như chỉ hướng tới mở rộng khả năng giám sát và tuần tra vùng biển bị tranh chấp, cải thiện điều kiện sống và đảm bảo có thể tiếp tế bằng đường hàng không nếu cần thiết.
Đồng tình với quan điểm này, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia Đông Nam Á của Đai học New South Wales, Úc, nói với BBC rằng các bước đi của Việt Nam ‘không gây lo ngại cho bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc’.
“Trung Quốc biết Việt Nam nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Trường Sa nhưng tới nay vẫn im lặng, không phản ứng quyết liệt như họ mới đây đã làm với việc xây dựng của Philippines trên đảo Thị Tứ.”
‘Khẳng định chủ quyền’
Dù chỉ xây dựng lặng lẽ và với quy mô nhỏ như vậy suốt nhiều năm tại Trường Sa và một số đảo khác tại Biển Đông, Giáo sư Carl Thayer cho rằng việc làm này cần thiết để Việt Nam khẳng định chủ quyền và sự hiện diện của mình ở Biển Đông.
“Hiện Trung Quốc ngày càng bành trướng ở Biển Đông và điều quan trọng là các nước chọn cách thức phản ứng như thế nào.”
“Chúng ta có thể hợp tác nhưng không có nghĩa là không có cách để lên tiếng mạnh mẽ về chủ quyền của mình. Và Việt Nam đang đi con đường đúng đắn,” Giáo sư Carl Thayer nói.
“So sánh với những gì đã xảy ra với Philippines thì tôi cho rằng Việt Nam đã chọn con đường phù hợp hơn. Nếu như Việt Nam im lặng trước mọi hành động bắt nạt của Trung Quốc thì cái mà Việt Nam nhận được sẽ là gì? Trung Quốc sẽ lại tiếp tục bao vây, xua đuổi, tấn công tàu cá, tịch thu lưới đánh cá… Và Việt Nam đã chọn cách củng cố sự hiện diện của mình ở khu vực này…. Hoàn toàn trái ngược với cách Tổng thống Philippines từng chọn là ‘khom lưng cúi gối’ mà làm bạn với Trung Quốc,” ông Carl Thayer nói.
Theo AMTI, Việt Nam, cùng một số nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đều cố chứng minh sự hiện diện của mình ở khu vực này.
Philippines đã treo cờ trên nóc một tòa nhà của nó tại đảo Loại Ta (Loaita Cay), ‘cạnh tranh’ với cờ Việt Nam treo ở Trường Sa và cờ Trung Quốc treo ở đảo Tri Tôn ở Hoàng Sa.
Thậm chí Trung Quốc chưa dừng lại ở đó, mới đây đã khuyếch trương tín hiệu về chủ quyền bằng cách treo cả cờ của nước Cồng hòa Nhân dân Trung Hoa và của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đảo Tri Tôn. Dưới các lá cờ là dòng chữ Đại lục mãi trường tồn và Vinh quang của đảng tỏa sáng đời đời.
Việt Nam đã xây gì ở Trường Sa?
Ở phía Đông Bắc của đảo Trường Sa, Việt Nam xây dựng hai cơ sở thông tin liên lạc, truyền tín hiệu; và xây một cụm các tòa nhà trên khu đất mới bồi đắp, dọc theo bến cảng nhân tạo; xây một khu thể thao gần tòa nhà hành chính trên đảo. Nhiều tòa nhà được lắp các tấm pin mặt trời, theo AMTI.
Để bảo vệ toàn bộ vùng đất mới được hình thành này khỏi nước dâng khi có bão, Việt Nam đã đào một loạt các kênh thoát nước phức tạp dọc theo rìa đảo.
Ở phía Tây Nam các rạn đá và đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa Việt Nam đã xây dựng 14 tiền đồn trong khu vực này, nơi được gọi là các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học và công nghệ.
Dưới đây là hành trình xây dựng của Việt Nam quanh quần đảo Trường Sa:
Trước 2014: Việt Nam bồi đắp thêm 6 mẫu đất trên rạn Phan Vinh (Pearson Reef).
2015- 2016: Mở rộng đường băng ở đảo Trường Sa từ 750m ban đầu lên đến 1.300m, và xây một bến cảng.
Tổng cộng, Việt Nam đã tạo thêm khoảng 40 mẫu đất tại đảo Trường Sa thông qua nạo vét một phần rạn san hô bao quanh đảo rồi san lấp bằng cát.
Quá trình này được cho là tốn nhiều thời gian hơn và ít gây hại cho môi trường hơn so với các phương pháp nạo vét và san lấp quy mô công nghiệp của Trung Quốc tại Trường Sa, nhưng vẫn là phá hủy rạn san hô có chủ ý, AMTI cho hay.
Từ 2016: Tiến hành nâng cấp cơ sở vật chất trên rạn Phan Vinh, bao gồm xây dựng sân bay trực thăng, lắp các tấm pin mặt trời và trồng thảm thực vật trên các khu đất mới.
Từ giữa 2017: Việt Nam cho lắp một radar lớn trên đỉnh một tòa nhà ở phía tây của rạn Phan Vinh, cho thấy sự cải thiện về tín hiệu hoặc khả năng liên lạc. Việc trồng cây xanh trên các khu vực bãi đất mới, có lẽ để tránh xói mòn, cũng đã hoàn tất.
Việt Nam cũng tiến hành mở rộng Đá Nam và Đá Núi Thị (Petley và South Reefs).
Việt Nam còn xây thêm các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học và công nghiệp ở Bãi Phúc Tần (Prince of Wales) và Bãi cạn Quế Đường (Grainger Banks) và một sân bay trực thăng lớn.
Cũng trong năm này, Việt Nam hoàn thiện đường băng và bốn nhà chứa máy bay; Các máy bay này nhiều khả năng là máy bay giám sát hàng hải PZL M28B và máy bay vận tải CASA C-295, theo AMTI.
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47876569
Biển Đông: Việt Nam làm gì
để giữ chủ quyền khi ‘ở vào thế yếu’?
Mỹ HằngBBC News Tiếng ViệtChỉ trong một thời gian ngắn sau khi loan tin đã khống chế được ổ dịch Covid-19 ở Vũ Hán, Trung Quốc liên tiếp cho triển khai nhiều hoạt động trên Biển Đông, tại các khu vực có tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng.
Mới đây nhất, vào ngày 2/4, đã xảy ra vụ va chạm giữa tàu Trung Quốc và tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi trên vùng biển thuộc Quần đảo Hoàng Sa, nơi cả Việt Nam và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền, khiến tàu Việt Nam chìm.
Việt Nam phản đối việc “tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam”, nhưng phía Trung Quốc sau đó phản hồi rằng chính là tàu cá Việt Nam đã đâm vào tàu Trung Quốc, và đòi Việt Nam phải “giáo dục và kiểm soát hiệu quả các tàu cá và ngư dân của mình”.
TQ lại lấn át ở Biển Đông, VN còn trông đợi Mỹ được không?
USS Theodore Roosevelt thăm Đà Nẵng: Mỹ gửi tín hiệu gì cho VN và TQ?
Biển Đông: “Nhiều khả năng TQ sẽ trở lại Bãi Tư Chính với dàn khoan”
VN bị ảnh hưởng gì khi Philippines muốn ‘gần Trung, xa Mỹ’?
Trong khi chính phủ Việt Nam cho người phát ngôn đưa ra lời yêu cầu Trung Quốc xử lý nghiêm tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt, đã có câu hỏi trong dư luận rằng liệu có phải chuyện ‘Hoàng Sa là của Việt Nam’ chỉ còn là trên danh nghĩa, và Việt Nam cần làm gì hơn nữa trước những hành động mới nhất của Trung Quốc?
BBC News Tiếng Việt trao đổi với một số chuyên gia luật và phân tích quốc tế về vấn đề này.
Tăng cường biện pháp bảo vệ ngư dân
Bình luận với BBC News Tiếng Việt, Tiến sỹ Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) cho rằng các hành động nêu trên của Trung Quốc báo hiệu các nguy hiểm kế tiếp có thể xảy ra cho ngư dân Việt Nam nếu tiếp tục đánh cá ở khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Chính sách của Mỹ hiện nay ở Biển Đông vẫn thiếu chiều sâu cần thiết..TS Nguyễn Thành Trung
“Đây là một phần của chiến thuật hăm dọa, răn đe của các lực lượng tàu bán quân sự Trung Quốc núp dưới cái tên tàu ngư chính hay tàu cá Trung Quốc để xua đuổi ngư dân các quốc gia khác khỏi ngư trường truyền thống của họ.”
“Ngoài phản đối ngoại giao, theo tôi chính phủ nên tăng cường lực lượng cảnh sát biển để bảo vệ ngư trường và ngư dân. Nhà nước cũng nên hỗ trợ ngư dân các phương tiện, thiết bị viễn thám và dẫn đường
hiện đại, giống như Trung Quốc đã trang bị miễn phí cho ngư dân của họ hệ thống dẫn đường Bắc Đẩu, giúp họ đánh bắt cá an toàn hơn.”
“Đây vừa là biện pháp cần làm ngay, nhưng cũng là mục tiêu dài hơi, đòi hỏi quyết tâm chính trị từ lãnh đạo Việt Nam, bởi Trung Quốc luôn khó chịu trước các hành động tăng cường sức mạnh biển của Việt Nam.”
“Tất nhiên, để đạt được điều này Việt Nam cần sự hỗ trợ từ các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, không chỉ về trang thiết bị, mà cả kỹ năng sử dụng và phối hợp giữa các lực lượng chấp pháp khác nhau.”
“Có thể học kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc – các nước có lực lượng chấp pháp mạnh trên vùng biển Hoàng Hải và Hoa Đông. Cảnh sát biển Hàn Quốc từng không ngần ngại khai hỏa để bắt các tàu đánh cá bằng lưới rà của Trung Quốc trong ngư trường của họ.”
Cần khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế
Trong khi đó, luật sư Ngô Anh Tuấn từ Hà Nội nói với BBC News Tiếng Việt rằng dù người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng, nhưng “việc phản đối qua con đường ngoại giao song phương như ta vẫn làm lâu nay cho thấy không mang nhiều giá trị trên thực tế”.
Dù ta ở vào thế yếu, nhưng thực tế này sẽ được cải thiện đáng kể nếu nhà nước xác định rõ kẻ thù và vạch ra mục tiêu lớn, rõ ràng để chống sự bành trướng của kẻ thù.LS Ngô Anh Tuấn
“Trên thực địa, chúng ta coi như đã thất bại hoàn toàn. Trên truyền thông, Trung Quốc muốn biến việc phản đối của chúng ta thành cuộc cãi vã kiểu chợ cá, kết quả không đi tới đâu.”
“Nhiều người (trong đó có tôi) lầm tưởng, sau sự kiện tàu Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam ngày 02/4/2020, phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã gửi công hàm lên LHQ phản đối hành vi này.”
“Nhưng thực ra, công hàm mới đây của Việt Nam được ký ngày 30/3/2020, tức là trước hai ngày so với sự kiện đâm chìm tàu cá, và nội dung là phản hồi hai công hàm mà Trung Quốc đưa ra trước đó đối với Philippines và Malaysia về vấn đề Biển Đông mà thôi.”
“Vậy nên, Việt Nam cần tiếp tục gửi công hàm lên LHQ phản đối hành vi của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển của Việt Nam.”
“Ngoài việc đưa vụ việc ra bàn luận tại các chương trình nghị sự của LHQ để quốc tế hiểu rõ hơn và có thể góp tiếng nói ủng hộ thì về mặt lâu dài, phía Việt Nam cần hoàn thiện hồ sơ pháp lý để khởi kiện việc Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ lên toà án quốc tế để có thể được xem xét một cách khách quan, công bằng.”
Trông đợi vào Mỹ hay vào ai?
Bàn về việc Việt Nam có thể trông cậy vào nước nào trong tình huống này, TS Nguyễn Thành Trung, người có mặt trực tiếp trong chuyến tàu sân bay Mỹ USS Theodore Rooservelt ghé cảng Đà Nẵng đầu năm 2020, bình luận rằng chuyến thăm “có nhiều ý nghĩa quan trọng… nếu chỉ gói gọn trong mối quan hệ song phương Mỹ-Việt”, nhưng lại “thiếu chiều sâu cần thiết” nếu nhìn rộng ra vấn đề với Trung Quốc.
Sự bùng phát dịch corona trên tàu USS Theodore Roosevelt là một cơn ác mộng về quan hệ công chúng của Mỹ và là một thất bại trong vận hành.GS Carl Thayer
“Chuyến thăm của US Theodore Roosevelt cho thấy sự sẵn sàng của Việt Nam cho các cuộc viếng thăm quân sự của các tàu sân bay Mỹ, khiến nó trở thành một thông lệ trong hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia.”
“Nó cũng thể hiện niềm tin ngày càng sâu sắc hơn về việc thúc đẩy hợp tác giữa hai quốc gia vốn từng là cựu thù. Đồng thời, thể hiện tái cam kết của Mỹ đối với chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.”
“Nhưng trong bức tranh rộng hơn với nhân tố Trung Quốc, chúng ta thấy rằng những chính sách của Mỹ hiện nay ở Biển Đông vẫn thiếu chiều sâu cần thiết, khi không ngăn chặn được các hành vi hăm dọa và ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông.”
“Có lẽ Mỹ cần các cam kết mạnh mẽ hơn, và giúp đỡ các quốc gia trong khu vực nhiều hơn. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của Mỹ không nên chỉ giới hạn ở các quốc gia đồng minh theo hiệp ước, mà cả quốc gia đối tác quan trọng trong khu vực.”
Trong khi đó, trả lời câu hỏi của BBC News Tiếng Việt rằng có phải Mỹ đã mất đi vị thế của mình trên Biển Đông khi đang đối mặt với dịch bệnh virus corona, Giáo sư Carl Thayer từ Úc nói: “Câu trả lời là Không!”
“Hoa Kỳ vẫn tiếp tục những hoạt động thể hiện sự tự do hàng hải, với các hoạt động tuần tra, sự hiện diện liên tục của hải quân và máy bay ném bom. Hải quân Hoa Kỳ gần đây đã có một cuộc tập trận bắn đạn thật.”
“Tuy nhiên, sự bùng phát dịch bệnh Covid-19 trên tàu USS Theodore Roosevelt là một cơn ác mộng về quan hệ công chúng của Mỹ và là một thất bại trong công tác vận hành. Sẽ mất một thời gian trước khi một nhóm các tàu chiến tương tự có thể được tập hợp để triển khai cho các nhiệm vụ ở Biển Đông.”
Về câu hỏi Hoa Kỳ có thể tranh thủ các đồng minh và các đối tác chiến lược khác trong một liên minh mới để chống lại Trung Quốc không, GS Carl Thayer nói:
“Sự xuất hiện của Bộ Tứ Cộng (Quad Plus) gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, và Mỹ cùng các đối tác mới của mình là New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam, là bằng chứng cho thấy một mạng lưới như vậy đang nổi lên.”
“Bộ Tứ Cộng đã tổ chức hai cuộc họp online, cả hai chỉ tập trung vào hợp tác để ngăn chặn virus corona. Trong khi đó, Trung Quốc đã củng cố và quân sự hóa bảy hòn đảo nhân tạo của mình ở Biển Đông. Sau khi căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Bãi Tư Chính lộ diện hồi tháng 7-10/2019, Trung Quốc hiện đang sử dụng các đảo này làm căn cứ điều hành tiền phương.”
“Quyết định của Philippines chấm dứt Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự là một đòn mạnh giáng vào Hoa Kỳ. Khi quyết định này có hiệu lực, Hoa Kỳ sẽ mất quyền tiếp cận các căn cứ có vị trí chiến lược gần Biển Đông. Trong khi đó, Trung Quốc sẽ cho Hải quân, Cảnh sát biển, Dân quân Hàng hải và đội tàu đánh cá của họ triển khai thường xuyên ở khu vực này.”
VN nên làm gì đối với vấn đề Quần đảo Hoàng Sa?
Trước thực trạng nóng bỏng hiện nay trên Biển Đông, đặc biệt qua vụ việc Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam ở Quần đảo Hoàng Sa, luật sư Ngô Anh Tuấn bình luận:
“Việt Nam đã chính thức mất sự kiểm soát Hoàng Sa từ năm 1974, sau khi quân đội của Việt Nam Cộng Hòa thất thủ trong cuộc chiến không cân sức với hải quân, lính thuỷ đánh bộ và không quân của Trung Quốc. Vậy nên, nói Hoàng Sa chỉ còn là một cái tên cũng không có gì là sai.”
“So với Trung Quốc, tiềm lực về mọi mặt của chúng ta chưa bao giờ ở thế cân bằng. Phải hiểu đúng thực trạng để chuẩn bị nguồn lực đòi lại mảnh đất cha ông trong tương lai.”
“Mọi người dân phải được quyền biết thông tin về hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông, nhà nước cần minh bạch về vấn đề này, và cho dân quyền được thể hiện chính kiến đối với chủ quyền biển đảo. Chính những người dân chứ không phải là các vị quan chức cấp cao mới là người sẽ phải chiến đấu, thậm chí phải hy sinh để đòi lại biển đảo quê hương.”
“Dù ta ở vào thế yếu, nhưng thực tế này sẽ được cải thiện đáng kể nếu nhà nước xác định rõ kẻ thù và vạch ra mục tiêu lớn, rõ ràng để chống sự bành trướng của kẻ thù thì ta hoàn toàn có thể làm được.”
“Vì khi đã xác định rõ mục tiêu đầu tư cho Hải quân, bảo vệ biển đảo, nhà nước sẽ biết cách phân phối nguồn lực, giảm đầu tư vào một số lĩnh vực chưa cần thiết hoặc không hiệu quả.”
“Quan trọng nữa là, một khi nhà nước đã dám “tuyên chiến” với Trung Quốc, thì các nguồn lực lớn, tự nguyện và hoàn toàn miễn phí có thể tới từ những doanh nghiệp lớn và người dân yêu nước sẽ là một đóng góp quan trọng vì sự căm thù Trung Quốc vốn có trong huyết quản mỗi người dân Việt, chỉ chờ cơ hội bộc lộ mà thôi.”
TS Nguyễn Thành Trung thì tin rằng “khi cần thiết, tất cả nguồn lực sẽ dồn cho việc bảo vệ chủ quyền” và người dân sẽ ủng hộ.
“Về vấn đề Hoàng Sa, tôi nghĩ chúng ta cần phân biệt hai phạm trù sau: các đảo đá ở Quần đảo Hoàng Sa, và khu vực biển xung quanh Quần đảo Hoàng Sa. Các đảo đá hiện đang bị Trung Quốc chiếm đóng nhưng điều đó không ngăn cản người dân Việt tin rằng Quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam.”
“Nếu chúng ta nhìn vào chiều dài lịch sử của quốc gia Israel, cuối cùng người Do Thái cũng có thể quay về Jerusalem. Đế quốc nào rồi cũng phải suy tàn. Tất nhiên đây không phải lịch sử của một đời người trong vòng 100 năm,” TS Nguyễn Thành Trung nói với BBC.
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52210570
0 comments