Tin Biển Đông – 05/12/2019
Chiến thuật “vùng xám” và vai trò của dân quân biển
trong mưu đồ của TQ đối với Biển Đông
Ngày đăng 05-12-2019
Tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 được tổ chức ở Hà Nội hồi đầu tháng 11/2019, nhiều học giả tham dự hội thảo trong phát biểu tham luận của mình đều nhắc nhiều đến cái gọi là chiến thuật “vùng xám” mà Trung Quốc đang áp dụng ở Biển Đông hòng “hiện thực hóa” chủ quyền biển, đảo của họ theo yêu sách “đường chín khúc”. Đặc biệt, trong phiên thảo luận vào sáng ngày 07/11/2019, chiến thuật “vùng xám” tiếp tục được nhiều học giả định nghĩa dưới các góc nhìn khác nhau, nhưng đều thống nhất ở chỗ là coi chiến thuật “vùng xám” là hành động gây căng thẳng nhưng dưới mức chiến tranh, không tạo cớ cho xung đột xảy ra để các nước khác không có cớ can thiệp bằng sức mạnh chính quy. Bằng cách áp dụng chiến thuật này, các nước có thể dùng lực lượng quân sự làm nền tảng cho các lực lượng dân sự hoạt động. Ngoài ra, còn kết hợp với một số chiến thuật khác như chiến tranh tâm lý, pháp lý, tuyên truyền… qua đó tạo ra một vùng từ không tranh chấp thành tranh chấp. Thậm chí, một số học giả còn đi sâu phân tích và làm rõ hơn nội hàm của chiến thuật này và không e ngại chỉ đích danh Trung Quốc đang sử dụng nó trong tranh chấp Biển Đông.
Tiêu biểu là học giả Hal Brands -chuyên gia của chương trình nghiên cứu chính sách đối ngoại về an ninh quốc gia tại Đại học Johns Hopkins, đã phân tích và lập luận khá sâu sắc về chiến thuật này. Theo ông, chiến thuật “vùng xám” được hiểu là hoạt động gây hấn, cưỡng chế, làm gia tăng căng thẳng nhưng lại duy trì nó ở dưới ngưỡng xung đột quân sự thông thường.Các quốc gia sử dụng chiến thuật “vùng xám” tập trung ở nhóm cường quốc xét lại, trong đó có Trung Quốc. Những nước này tìm cách “sửa đổi” lại một số vấn đề trên trường quốc tế trong hiện tại. Họ đặt mục tiêu sẽ giành chiến thắng trong các cuộc xung đột kiểu này, dù là trong vấn đề lãnh thổ hay cáctranh chấp khác. Các bên sử dụng chiến thuật “vùng xám” sẽ đạt những lợi ích tính toán mà không phải leo thang xung đột thành chiến tranh, không vượt qua “ranh giới đỏ”. Từ đó, họ còn đạt được lợi ích khác nữa mà không phải chịu các biện pháp trừng phạt hay rủi ro do sự leo thang mang lại. Chính vì thế, những thách thức do chiến thuật “vùng xám” đem đến lại khá mơ hồ trên thực tế. Cách thức sử dụng đa dạng, từ tấn công mạng, tuyên truyền truyền thông, chiến tranh chính trị, áp bức và phá hoại kinh tế, leo thang sức mạnh quân sự… Nó cũng thường được che giấu dưới các thông tin sai lệch, lừa dối, thường đẩy các bên có trách nhiệm vào thế “tiến thoái lưỡng nan”, khó minh định phần trách nhiệm của họ.
Một số học giả khác lại cho rằng, đây là kiểu chiến thuật khai thác lỗ hổng pháp luật. Tuy nhiên, cách hiểu này tiếp tục gây tranh cãi. Những người phản đối cho rằng, pháp luật rất rõ ràng, nhưng vấn đề ở chỗ một số nước cố tình lách luật và vi phạm. Ví dụ, pháp luật biển nêu rõ không được cưỡng ép, cản
trở tự do hàng hải, nhưng có nước cứ làm, cứ triển khai lực lượng tuần duyên, hải quân, tàu cá vũ trang… để cản trở nước khác.
Trong khi đó, có học giả Trung Quốc đến từ Đại học Bắc Kinh lại cho rằng, các nước khác đều sử dụng chiến thuật “vùng xám” tại Biển Đông, nhưng riêng Trung Quốc thì “không tham gia chiến thuật vùng xám” và Trung Quốc “có chủ quyền và làm đường đường chính chính trong khu vực của mình”. Vị học giả này cũng cho rằng, mọi hành động của Trung Quốc đều được thể hiện xuất phát từ hành động của Mỹ. Đương nhiên, phát biểu của học giả Trung Quốc đã vấp phải tranh luận và phản bác dữ dội của các học giả khác tham dự hội thảo. Họ đều thống nhất khẳng định với vị học giả Trung Quốc rằng, không có cái gọi là mập mờ về mặt pháp luật, tức là cái gọi là “vùng xám” không thể nằm ngoài pháp luật.
Lập luận của học giả Trung Quốc cũng đã buộc ông Greg Poling – Giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải (AMTI) tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) ở Washington phải lên tiếng nói thẳng ra rằng: Cái gọi là chiến thuật “vùng xám” đang được xác định là việc Trung Quốc sử dụng lực lượng quân đội hoặc dưới mức quân đội, một lực lượng bờ biển, chỉ huy lực lượng dân quân để cưỡng bức và ngăn chặn việc khoan dầu khí, quấy rối ngư dân… các nước ở xung quanh Biển Đông. Toàn bộ chiến thuật này được xây dựng xung quanh ý tưởng không sử dụng lực lượng quân sự và điều đó khiến Mỹ hoặc các nước không thể sử dụng lực lượng quân sự để đáp trả.
Như vậy, hà cớ gì Trung Quốc phải “cậy đến” chiến thuật “vùng xám” và họ đã vận dụng chiến thuật “vùng xám” ở Biển Đông như thế nào?
Trả lời cho câu hỏi thứ nhất khá ngắn gọn và đơn giản. Đó là bởi tham vọng “độc quyền” kiểm soát Biển Đông là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc nhằm đưa nước này trở thành cường quốc biển, tiến tới trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, mục tiêu này đã và đang gặp trở ngại từ Mỹ và đồng minh cũng như sự phản ứng của các quốc gia ven Biển Đông, nên Bắc Kinh đã đề ra nhiều giải pháp để “chế ngự” và vượt qua các trở ngại này, trong đó có chiến thuật “vùng xám”, với công cụ chính là lực lượng dân quân biển.
Trả lời cho câu hỏi thứ hai mới là phức tạp. Bởi hơn 10 năm qua, Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược tổng thể để thực hiện cho được mục tiêu thâu tóm Biển Đông thông qua chiến thuật “vùng xám”. Trong thực thi chiến thuật này, Trung Quốc sử dụng 2 cách để đẩy vấn đề leo thang ở Biển Đông, nhưng không để nó trở thành tranh chấp quân sự.
Cách thứ nhất, Trung Quốc đã thành lập lực lượng dân quân biển để thực thi chiến thuật “vùng xám”. Theo đó, dân quân biển là một bộ phận của dân quân Trung Quốc, được thành lập năm 1985 tại tỉnh Hải Nam, ban đầu có nhiệm vụ chuyển hàng tiếp tế, vật liệu xây dựng lên các đảo trên biển. Gần đây, Trung Quốc đã đầu tư, phát triển lực lượng này thành một trong ba lực lượng nòng cốt trên biển (gồm hải quân, cảnh sát biển, dân quân biển), có nhiệm vụ: (1) Bảo vệ chủ quyền quốc gia; (2) Tuần tra trinh sát; (3) Phối hợp với các lực lượng chấp pháp trên biển; (4) Tham gia cứu hộ, cứu nạn; (5) Hỗ trợ chiến đấu. Ngoài ra, lực lượng này còn tham gia vào “nhóm phối hợp chấp pháp” cung cấp thông tin cho quân đội, đẩy đuổi các tàu cá nước ngoài, ngăn cản tàu nước ngoài tiếp cận các đảo, hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế các nước láng giềng; ngăn cản nước ngoài thăm dò, khai thác tài nguyên, đánh bắt thủy, hải sản trên Biển Đông để bảo vệ “quyền và lợi ích” của Trung Quốc trên biển. Những nhiệm vụ này giúp Trung Quốc chiếm ưu thế tại những khu vực tranh chấp. Dân quân biển là một bộ phận quan trọng thực thi chiến thuật “vùng xám”, giúp Trung Quốc kiểm soát thực địa mà không cần tới đội quân chính quy, kể cả hải quân; không cần phải sử dụng vũ lực một cách quy mô và trực tiếp. Như vậy, vừa gây sức ép lên đối thủ, vừa kiểm soát rủi ro trên thực địa; đồng thời giấu mặt, không đưa hải quân ra tuyến trước, nhưng lâu dần sẽ khiến thực trạng tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Trung Quốc.
Dân quân biển Trung Quốc là lực lượng chuyên nghiệp, được tuyển dụng từ việc giảm biên chế quân đội, từ các cựu chiến binh phục vụ trong lực lượng hải quân (khoảng 300.000 quân nhân bị tinh giản biên chế) đã được đề nghị làm việc cho “một công ty ngư nghiệp” với mức lương cạnh tranh cùng nhiều chế độ đãi ngộ mà không đòi hỏi năng lực đánh bắt cá. Dân quân biển Trung Quốc được trang bị vũ khí cá nhân phù hợp, được sử dụng những con tàu hiện đại, được trả lương hậu hĩnh ngoài phần thu được từ đánh bắt cá, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong một số chiến dịch “cưỡng chế” trong những năm qua. Trước năm 2017, riêng tỉnh Hải Nam đã đóng 84 tàu cá dân quân cỡ lớn, mạn tàu được gia cố chịu lực phần mũi để có thể đâm đa, va húc; được trang bị vòi rồng công suất cao để tấn công thủy thủ đoàn trên tàu nhỏ; được trang bị thiết bị viễn thông hiện đại để hoạt động gián điệp cũng như dễ phối hợp theo mệnh lệnh của quân đội. Ngoài đóng mới, Trung Quốc cũng cải tạo, trang bị cho hàng trăm tàu cá của ngư dân trở thành tàu của dân quân biển. Các đội tàu cá kiêm dân quân biển của Trung Quốc có khả năng hoạt động xa bờ dưới danh nghĩa tàu cá chính phủ. Dân quân biển do một công ty quản lý gọi là
chi đội; chi đội được biên chế thành các đại đội; các tổ sản xuất được biên chế thành trung đội; mỗi tàu là một tiểu đội dân quân biển. Dân quân biển được huấn luyện đối phó với các tình huống bất thường trong thời bình và thời chiến, bao gồm sử dụng vũ khí hạng nhẹ và triển khai thường xuyên đến các khu vực trên Biển Đông.
Dân quân biển Trung Quốc thường đội lốt là các ngư dân đánh bắt cá trên các vùng biển tranh chấp. Trong quá trình đánh bắt cá, các đội dân quân này nhiều lần xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển của các nước trong khu vực. Theo nhà nghiên cứu Ryan D.Martinson thuộc Đại học Hải chiến Mỹ, lực lượng dân quân biển Trung Quốc hiện đang trú đóng trái phép trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam được xem là “hình mẫu chuyên nghiệp” cho toàn Trung Quốc, với hơn 70 tàu lớn được thiết kế và đóng mới chỉ để phục vụ chiến thuật “vùng xám”.
Trên thực tế, kể từ năm 2009 đến nay, hầu như tất cả các vụ đụng độ đáng chú ý trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các quốc gia liên quan đều có sự xuất hiện của dân quân biển. Ví dụ như: Tham gia quấy rối tàu Impeccabele của Mỹ năm 2009 tại khu vực phía nam đảo Hải Nam; hỗ trợ Hải quân Trung Quốc chiếm bãi cạn Scaborough của Philippines năm 2012; hỗ trợ tàu Hải Dương 981 thăm dò trái phép trong Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam năm 2014; đánh cá trộm tại vùng biển Indonesia năm 2016; quấy rối tàu thăm dò dầu khí của Malaysia tháng 5/2019 tại bãi Luconia; từ tháng 7/2019, hộ tống và bảo vệ tàu Hải Dương 8 hoạt động thăm dò trái phép tại Vùng đặc quyền kinh tế thuộc bãi Tư Chính của Việt Nam.
Cách thứ hai, Trung Quốc luôn tìm cách che giấu hoạt động của tàu dân quân biển. Các hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao cho thấy, luôn có từ 200-300 tàu cá Trung Quốc hoạt động xung quanh đá Xu Bi và Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hầu hết những con tàu này đều có tải trọng trên 500 tấn, đồng nghĩa là chúng bắt buộc phải lắp đặt hệ thống nhận dạng tự động (AIS). Tuy nhiên trên thực tế, đa số trong số tàu này không bật hệ thống AIS thường xuyên nhằm để che giấu số lượng và hành tung. Vì thế, Bắc Kinh thường giải thích những vụ đâm tàu trên Biển Đông do các tàu này gây ra là “các tai nạn hàng hải thông thường”. Việc Trung Quốc đặt lực lượng dân quân biển trong “bóng tối” sẽ giúp Bắc Kinh có thể tái diễn trò đâm va và quấy rốicác tàu nước ngoài mà họ cho là đang hoạt động trong “đường chín khúc”phi lý do họ tự vẽ ra, qua đó nhằm củng cố sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cách làm trên của Trung Quốc còn khiến cho các bên có tranh chấp trên Biển Đông, cũng như các lực lượng khác qua lại trên biển thường không thể xác định họ đang đối mặt với tàu cá bình thường hay là “bất thường” của Trung Quốc, nên thường kiềm chế tránh leo thang xung đột để không bị Trung Quốc cáo buộc là “vi phạm nhân quyền”. Trong khi đó, Trung Quốc lợi dụng sự mơ hồ này để thực hiện mưu đồ kiểm soát Biển Đông.
Trong vụ việc Trung Quốc đưa tàu địa chất Hải Dương 8 xâm phạm bãi Tư Chínhcủa Việt Nam vừa qua, chiến thuật “vùng xám” được thể hiện ở mấy yếu tố sau:
Một là, bên cạnh sự hiện diện mạnh mẽ của các tàu cảnh sát biển Trung Quốc, còn có các tàu dân quân biển. Đây là hiện tượng không mới. Cảnh sát biển và dân quân biển đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ chiến thuật “vùng xám” của Trung Quốc. Đây được xem là lực lượng chấp pháp biển “bán quân sự”, có thể can thiệp vào bất cứ một va chạm nào ở Biển Đông. Đặc trưng cốt lõi trong việc sử dụng lực lượng này chính là việc căng thẳng có thể kiểm soát ở mức độ chấp nhận được, bởi vì chiến thuật chủ yếu của cảnh sát biển và dân quân biển chỉ là đâm va.Hai tàu cảnh sát biển nổi bật nhất của Trung Quốc trong vụ xâm phạm bãi Tư Chính là tàu Hải cảnh 35111, con tàu vốn đã tham gia tuần tra vùng nước gần cụm bãi cạn Luconia, ngoài khơi bang Sarawak của Malaysia. Con tàu thứ hai là tàu Hải cảnh 3901, tàu cảnh sát biển lớn nhất thế giới của Trung Quốc với lượng giãn nước 12.000 tấn, lớn hơn cả một số lớp tàu chiến hiện đại của Mỹ.Có thể thấy, thông qua sự kiện này, Trung Quốc đã phô trương khả năng mới được tăng cường kể từ năm 2014 với nhiều loại tàu mới và hùng hậu hơn.
Hai là, các căn cứ quân sự mới, phi pháp do Trung Quốc lập ra ở Biển Đông, như Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa, có thể là nơi tiếp sức cho tàu hải cảnh Trung Quốc (như tiếp nhiên liệu, vật tư). Điều này cho thấy giá trị mới của các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã xây dựng trên Biển Đông. Những cơ sở hậu cần quân sự này giúp cho các lực lượng của Trung Quốc có thể triển khai nhanh chóng tại những điểm nóng. Qua đó tăng cường năng lực kiểm soát thực tế của Bắc Kinh ở các khu vực tranh chấp.
Ba là, mặt trận thông tin đóng vai trò quan trọng. Đây cũng là một phần của chiến thuật “vùng xám” khi Trung Quốc cố gắng tung ra những bằng chứng lịch sử có lợi cho họ. Vừa qua, mặc dù truyền thông chính thống của Trung Quốc không đề cập gì nhiều tới sự kiện bãi Tư Chính, nhưng một số nhóm nghiên
cứu và học giả Trung Quốc đã tiến hành các hành động tuyên truyền bất lợi cho Việt Nam. Họ cố tình rêu rao rằng, Việt Nam là bên gây hấn trước, rồi từ đó đưa ra những lập luận ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Tiêu biểu là lập luận về cơ sở pháp lý của bãi Tư Chính (Việt Nam cho rằng bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa Việt Nam, không liên quan tới quần đảo Trường Sa; Trung Quốc cho rằng bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa). Họ tăng cường cử học giả ra nước ngoài để bảo vệ quan điểm chủ quyền hay gia tăng xuất bản các bài báo học thuật quốc tế ủng hộ quan điểm của Trung Quốc.
Trở lại vai trò của dân quân biển Trung Quốc, tháng 6/2019, tại Đối thoại Shangri-La, quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tố cáo Trung Quốc gia tăng phối hợp giữa 3 lực lượng hải quân, cảnh sát biển và dân quân biển, tạo sự mập mờ giữa các hoạt động của lực lượng quân sự và lực lượng thực thi pháp luật, gây ra mối nguy hiểm đối với các nước nhỏ hơn có yêu sách chủ quyền. Do đó, Mỹ cảnh báo, các hành vi khiêu khích của tàu dân quân biển Trung Quốc sẽ bị coi như hành động của lực lượng hải quân.
Như vậy có thể thấy, chiến thuật “vùng xám” với công cụ thực hiện chính là dân quân biển đang và sẽ được Trung Quốc thực hiện một cách từ từ, chậm mà chắc, với thời gian hoạt động kéo dài trong nhiều thập kỷ. Đặc biệt, nó ngày càng hiệu quả trong bối cảnh khu vực chưa có tiếng nói chung về vấn đề chủ quyền, trong khi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) đang bị các nước lớn xem thường, bất tuân, trong đó có Trung Quốc. Có chuyên gia đã cảnh báo, xung đột xảy ra trên Biển Đông rất nhiều khả năng liên quan đến dân quân biển Trung Quốc hơn là hải quân hay cảnh sát biển nước này. Dân quân biển không có cơ chế liên lạc và xuống thang căng thẳng như hải quân; dân quân biển cũng không phải là đối tượng trong phạm vi áp dụng Bộ quy tắc tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) mà hải quân các nước đã ký với nhau. Những ai theo dõi sự kiện ở bãi Tư Chính vừa qua đều thấy rõ, Trung Quốc đã vận dụng chiến thuật “vùng xám” rất linh hoạt để tạo ra căng thẳng ở Biển Đông, đẩy các bên liên quan vào những tình huống leo thang nhưng lại mơ hồ về cách giải quyết vấn đề.
Có thể nói, với việc không chủ trương dùng quân đội đơn thuần hay sức mạnh “cơ bắp” để gây chiến tranh ở Biển Đông, Trung Quốc đang từng bước kết hợp nhiều lực lượng dân sự, bán quân sự, quân sự trên các mặt trận thực địa, thông tin, pháp lý lẫn tâm lý để tìm kiếm lợi ích tại vùng biển được đánh giá là nhộn nhịp và quan trọng vào hàng bậc nhất thế giới. Vì vậy, các nước cần hết sức cảnh giác với chiến thuật “vùng xám” và hoạt động của các lực lượng bán vũ trang của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhất là lực lượng dân quân biển.
Điều gì khiến TQ đòi các nước muốn tập trận chung
ở Biển Đông phải có sự đồng ý trước
Tiến trình đàm phán giữa Trung Quốc và ASEAN để tiến tới ký kết Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vẫn đang diễn ra với bao kỳ vọng của tất cả những người quan tâm đến hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực Đông Nam Á. Người ta mong muốn COC cho dù không giải quyết được tất cả những vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông giữa các nước, nhưng chí ít nó cũng là một văn bản mang tính pháp lý, quy định chi tiết cho những hành vi được phép hay không được phép trên một phạm vi biển nhất định, nhằm loại bỏ những hiểu lầm không đáng có, nhất là loại bỏ những yếu tố vi phạm luật pháp quốc tế trong ứng xử giữa các quốc gia có chủ quyền xung quanh Biển Đông. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán trên có vẻ “dẫm chân tại chỗ” khi Trung Quốc đưa ra ba điều kiện tiên quyết để đạt được COC. Một trong ba điều kiện đó là: Các nước bên ngoài khu vực muốn tập trận chung với các nước trong khu vực thì phải có sự đồng ý trước. Điều kiện trên không nói rõ nước cụ thể nào ngoài khu vực muốn tập trận chung với nước cụ thể nào trong khu vực và phải có sự đồng ý của ai. Nhưng người ta vẫn hiểu được thâm ý của Trung Quốc là các nước ngoài khu vực muốn tập trận ở Biển Đông với các nước trong khu vực phải được sự “cho phép” của Trung Quốc. Điều kiện trên thoạt nghe có vẻ như đề cao ý thức gìn giữ hòa bình và tư cách làm chủ khu vực của các nước. Nhưng thực chất, nó lại chỉ phục vụ cho Trung Quốc hướng lái COC trong tương lai theo ý đồ của họ mà thôi.
Trước hết, cần phải hiểu rằng, trong quan hệ quốc tế, kể cả quan hệ song phương và đa phương, quốc phòng – an ninh là lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi phải có sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị, có sự cọ xát và kiểm chứng qua thời gian, và do đó nó thường phát triển đi sau các lĩnh vực chính trị – ngoại giao, kinh tế, văn hóa… Khi các bên đã ký kết hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh, nhất là phối hợp tổ chức các cuộc tập trận chung, thì điều đó có thể hiểu là mối quan hệ trên các lĩnh vực giữa hai nước hoặc giữa các bên đã có sự phát triển cao. Trên một bình diện khác, trong đời sống chính trị quốc tế, thông thường mỗi khi ở một khu vực nào đó của thế giới có chuyện bất ổn, hay giữa hai quốc gia gần nhau có chuyện bất ổn trong quan hệ thì người ta thường tính đến chuyện “động binh” để răn đe và phòng ngừa, trong đó tập trận quân sự là “bài” đầu tiên. Biển Đông với những diễn biến gần đây đã trở thành khu vực bao hàm trong nó cả hai nhân tố khuyến khích cho các hoạt động tập trận quân sự diễn ra. Nhân tố thứ nhất là do quan hệ của các nước trong khu vực với các nước lớn ngoài khu vực đã phát triển nhanh chưa từng có. Thậm chí, hầu hết các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga… đều đã trở thành đối tác chiến lược của ASEAN. Các nước trên đã lần lượt “đánh tiếng” muốn tập trận quân sự với từng nước ASEAN hay nhiều nước ASEAN. Việc Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga… muốn tập trận chung với các nước trong khu vực Biển Đông là có nhiều lý do, nhưng nó cũng cho thấy, quan hệ giữa các nước này với các nước ASEAN đã có sự phát triển ngày càng gắn bó mật thiết hơn. Còn nhân tố thứ hai lại cho thấy Biển Đông gần đây luôn diễn biến căng thẳng, phức tạp do các hành động gây hấn của Trung Quốc đối với ngư dân và hoạt động kinh tế bình thường của các nước có chủ quyền xung quanh. Những hành động đó làm cho an ninh Biển Đông bất ổn, khiến người ta buộc phải tính đến tập trận quân sự để phòng ngừa, răn đe.
Trung Quốc, với tham vọng trở thành “nhà lãnh đạo” khu vực, đương nhiên không lấy gì làm hào hứng lắm với cả hai nhân tố trên. Vì để cho các nước tập trận ở Biển Đông với bất cứ lý do nào thì cũng đều “tổn hại” cho họ. Nếu các nước thông báo trước hoạt động tập trận chung, Trung Quốc sẽ không đến nỗi bị lép vế và mất thế độc tôn trong cái gọi là “độc quyền” kiểm soát Biển Đông. Ít ra, Trung Quốc sẽ kiểm soát được mức độ mối quan hệ của các nước trong khu vực với các nước bên ngoài trong trường hợp thứ nhất và sẽ chủ động đối phó với những gì sẽ diễn ra trong trường hợp thứ hai. Vì thế, cần phải yêu cầu các nước muốn tập trận phải có sự đồng ý trước.
Thứ hai, theo tuyên truyền của Trung Quốc thì hiện nay, Biển Đông vẫn “bình yên”, làm gì có bất ổn. Có chăng chỉ là do có sự can dự của các nước bên ngoài khu vực vào đây, trong đó có hoạt động tập trận quân sự, khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nên cần loại bỏ yếu tố này. Truyền thông Trung Quốc lập luận, kể từ khi Tòa trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) ra phán quyết cuối cùng về vấn đề Biển Đông đến nay, Trung Quốc và các nước có tranh chấp ở Biển Đông đã đạt được một số nhận thức chung trong việc đàm phán, bàn bạc giải quyết tranh chấp, các cuộc tham vấn về COC được đẩy nhanh, hợp tác thực chất trên biển được thúc đẩy, tình hình Biển Đông ổn định theo chiều hướng tích cực, có thể kiểm soát. Tuy nhiên, các quốc gia ngoài khu vực mà đứng đầu là Mỹ thông qua tăng cường sự hiện diện quân sự và bán quân sự của mình ở khu vực Biển Đông, thắt chặt quan hệ hợp tác an ninh song phương với các nước có yêu sách chủ quyền nhằm mục đích làm suy yếu sức mạnh quân sự đang không ngừng được tăng cường của Trung Quốc ở Biển Đông, thách thức chủ trương của Trung Quốc ở vùng biển này, tình hình ở Biển Đông vì thế đang đối mặt với những bất ổn “không đáng có”.
Cũng theo truyền thông Trung Quốc, sau khi chuyển từ chiến lược “tái cân bằng sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương” sang chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, Mỹ tiếp tục đầu tư chiến lược vào Biển Đông thông qua việc tăng cường bố trí tiền đồn, mở rộng các nước đối tác an ninh và xây dựng mạng lưới an ninh khu vực lấy Mỹ làm trung tâm để nhằm mục tiêu kiềm chế Trung Quốc. Việc Mỹ triển khai lực lượng quân sự ở Biển Đông và khu vực xung quanh ngày càng nhiều và mang tính khiêu khích hơn đã gia tăng mức độ đe dọa quân sự đối với Trung Quốc. Mặt khác, “Chương trình tự do hàng hải” của Mỹ lấy phán quyết của PCA làm căn cứ, thách thức chủ trương mang tính tổng thể về quần đảo của Trung Quốc, có ý đồ chia các đảo đá, rạn san hô ở Trường Sa thành từng rạn đá hoặc vùng cận duyên (nổi khi triều thấp, chìm khi triều cao) không có quyền quản lý vùng biển hoặc quyền lợi biển hạn chế, khiến cho diện tích vùng biển mà Trung Quốc chủ trương kiểm soát ở Biển Đông bị “vỡ vụn”. Bên cạnh đó, dưới sự khuyến khích của Mỹ, các nước đồng minh như Nhật Bản, Australia, Anh… cũng lần lượt đưa tàu chiến tiến vào Biển Đông, cố ý khuấy động tình hình Biển Đông vốn đang ổn định theo chiều hướng tích cực. Năm 2019, Mỹ còn triển khai lực lượng bảo vệ bờ biển đến Biển Đông để giám sát tàu thực thi pháp luật và tàu cá của Trung Quốc, đồng thời tuyên bố sẽ đối xử giống nhau đối với tàu cảnh sát biển, tàu cá và nhân viên quân sự Trung Quốc phối hợp với các hoạt động hải quân. Đồng thời, Mỹ còn dần thắt chặt quan hệ quốc phòng với các nước có tranh chấp ở Biển
Đông, chẳng hạn như dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, bán tàu chiến, tặng tàu tuần tra cao tốc, nâng cao năng lực phòng vệ trên biển của Việt Nam. Đặc biệt, cùng Philippines, Malaysia tổ chức tập trận chung nhằm vào Trung Quốc…
Với luận điệu tuyên truyền trên, Trung Quốc đang ra sức đổ lỗi về những bất ổn ở Biển Đông thời gian qua chủ yếu là do các hành động can dự, trong đó có hoạt động tập trận quân sự của các nước bên ngoài khu vực.
Nhưng trên thực tế, chính các hoạt động của Trung Quốc đã và đang đe dọa đến các lợi ích trên biển không chỉ đối với các nước trong khu vực, mà còn cả đối với các nước ngoài khu vực theo quy định của luật pháp quốc tế. Sau khi PCA ra phán quyết cuối cùng về vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Trung Quốc, với ưu thế sức mạnh và tham vọng của mình đã tìm mọi cách để xoay chuyển tình thế trên tất cả các mặt trận để nắm quyền kiểm soát Biển Đông. Họ không hề “chùn bước” trước phán quyết của PCA mà ngược lại, còn triển khai nhiều hoạt động bất chấp lẽ phải và đạo lý. Cùng với việc tiến hành cuộc chiến pháp lý, truyền thông, ngoại giao, Trung Quốc đã triển khai hoạt động bồi đắp, cải tạo các đá ngầm, bãi cạn và tiến hành “quân sự hóa” trên diện rộng ra khắp Biển Đông. Đã hoàn thiện ba đường băng dài trên 3.000m, thiết lập hệ thống tên lửa, mạng lưới radar, anten…tại quần đảo Trường Sa; lắp đặt trang thiết bị mở rộng phạm vi giám sát trên không, trên biển và tác chiến điện tử ở quần đảo Hoàng Sa, đồng thời có kế hoạch xây dựng đảo Phú Lâm, đảo Cây và đảo Duy Mộng thành “căn cứ hậu cần chiến lược”. Tại đảo Hải Nam, Trung Quốc đã nâng cấp 4 căn cứ không quân và xây dựng căn cứ tên lửa chiến lược liên lục địa. Nếu triển khai các loại máy bay chiến đấu hiện đại với phạm vi hoạt động từ 1.000 – 1.500km tại các căn cứ trên, thì Trung Quốc đủ khả năng kiểm soát trên không toàn bộ Biển Đông và một phần lãnh thổ các nước ven Biển Đông. Không những thế, Trung Quốc còn đẩy mạnh triển khai hệ thống cảnh báo, giám sát dưới mặt biển như Khu nhận dạng hàng hải (MNIZ) và Khu nhận dạng âm thanh dưới mặt biển (UAIZ) ở Biển Đông. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tăng cường hiện diện lực lượng hải quân, hải cảnh, hải giám để tuần tra, xua đuổi, bắt giữ phương tiện, tàu thuyền các nước ở Biển Đông; tích cực sử dụng hàng nghìn tàu cá vỏ sắt có công suất lớn, tàu cá dân binh như một mạng lưới trinh sát trên Biển Đông; gây sức ép với Philipppines tại đảo Thị Tứ; đưa tàu khảo sát địa chất xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở bãi Tư Chính. Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức nhiều cuộc tập trận với tần suất và quy mô ngày càng mở rộng, trong đó có cuộc duyệt binh hải quân trên biển (tháng 4/2018) gần đảo Hải Nam với quy mô lớn nhất từ trước tới nay nhằm phô trương sức mạnh, xa hơn là răn đe các nước.
Cho dù Trung Quốc cố tình “lấp liếm” sự thật trên thì trong thâm tâm họ cũng phải thừa nhận Biển Đông đã bị quốc tế hóa và nguy cơ xung đột xảy ra ngày càng cao. Chính vì vậy, để Biển Đông ổn định theo sự kiểm soát của Trung Quốc trong tương lai, một trong những điều kiện khi COC ra đời là Bắc Kinh bắt buộc các nước ngoài khu vực muốn tập trận chung thì phải thông báo cho họ, tức là phải “xin phép” Trung Quốc.
Thứ ba, hiện nay Trung Quốc chưa từ bỏ tham vọng chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông thông qua cái gọi là yêu sách “đường chín khúc” chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông. Bất chấp luật pháp quốc tế, như UNCLOS 1982, DOC, các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và ASEAN, giữa Trung Quốc với các nước có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, bất chấp phán quyết của PCA, Trung Quốc đã thực thi nhiều hoạt động phi pháp ở Biển Đông theo yêu sách “đường chín khúc”, từng bước biến Biển Đông thành “ao nhà” của họ. Trong các thủ đoạn, biện pháp và bước đi hiện thực hóa “đường chín khúc”, thủ đoạn trên mặt trận pháp lý được Trung Quốc chú trọng. Việc Trung Quốc đưa điều kiện các nước trong và ngoài khu vực muốn tập trận chung ở Biển Đông phải được sự đồng ý (của Trung Quốc), điều này có thể hiểu là nếu các nước đó thực hiện yêu cầu này của Trung Quốc thì vô hình chung đã thừa nhận Biển Đông là của Trung Quốc. Tức là Biển Đông là của tôi (Trung Quốc), anh muốn vào thì phải “xin phép” và có sự đồng ý của tôi thì mới được. Đây là cái “bẫy pháp lý” Trung Quốc đang giăng ra để “bẫy” các nước đang đàm phán với họ về COC, qua đó tạo sự thừa nhận gián tiếp chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông theo yêu sách “đường chín khúc”. Vì thế, các nước ASEAN đang đàm phán với Trung Quốc nên tỉnh táo tránh xa “cạm bẫy” này.
Thứ tư, thực tế tình hình Biển Đông hiện nay cũng cho thấy, Mỹ và nhiều nước ngoài khu vực đã gia tăng hiện diện quân sự ở Biển Đông để đối phó với các hành động quân sự của Trung Quốc. Từ khi lên nắm quyền năm 2017, Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã tăng cường điều tàu chiến, tàu sân bay, máy bay tuần tra Biển Đông, đặc biệt đã tiến hành 13 đợt hoạt động tự do hàng hải (so với 5 đợt dưới thời Tổng thống B.Obama), để ngỏ khả năng lập căn cứ quân sự mới gần Biển Đông. Mỹ cũng lôi kéo các đồng minh gia tăng hiện diện quân sự và tập trận chung ở Biển Đông và khu vực xung quanh,
như tập trận chung với Nhật Bản, Anh, Ôxtrâylia và Philippines; tập trận chung chống ngầm với Anh, Nhật Bản ở Tây Thái Bình Dương; lên kế hoạch cho các cuộc tập trận đa quốc gia ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó tập trung vào “kịch bản Biển Đông”. Gần đây nhất, từ ngày 02 đến ngày 06/09/2019), lần đầu tiên Hải quân Mỹ và Hải quân 10 nước ASEAN đã tiến hành cuộc tập trận hàng hải chung, địa điểm nằm bên ngoài “đường chín khúc” để tránh leo thang căng thẳng với Trung Quốc. Tuy nhiên dư luận cho rằng, cuộc tập trận này xác định đối tượng giả định tuy không phải là Trung Quốc, nhưng thực chất nhằm đối phó lại với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Ông Eric Sayers – người từng giữ vai trò cố vấn cho Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ cho rằng, bằng cuộc tập trận với ASEAN, Lầu Năm Góc muốn hình thành “các căn cứ quân sự tạm thời” để ngăn chặn khả năng Trung Quốc tấn công vào các căn cứ của Mỹ. Cựu Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, ông Elbridge Colby nhận định rằng, các hành vi gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông đang hạ thấp hình ảnh và uy tín của Mỹ trong mắt các quốc gia Đông Nam Á. Do đó, đã tới lúc Washington cần phải tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực, bao gồm cả việc công nhận tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của một số nước đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, chia sẻ thông tin tình báo, kết hợp đào tạo và tăng cường năng lực hàng hải cho các nước có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông. Còn các chuyên gia trong khu vực thì cho rằng, cuộc tập trận lần này do Mỹ cầm đầu là để tăng cường quan hệ giữa Quân đội Mỹ và ASEAN nhằm cân bằng ảnh hưởng hàng hải của Trung Quốc trong khu vực, đối phó với thách thức và thúc đẩy quan hệ đối tác hàng hải, an ninh và ổn định ở khu vực Đông Nam Á.
Như vậy có thể hiểu là, chính các hành động phi pháp của Trung Quốc đã “kéo” các nước bên ngoài can thiệp ngày càng nhiều hơn đối với khu vực này, và những hành động can thiệp đó không chỉ để bảo vệ các quyền lợi trên biển theo đúng quy định của luật pháp quốc tế đối với các nước này, mà nó còn cho Trung Quốc thấy một điều rằng, chính Bắc Kinh đã “bôi mỡ cho kiến đốt” khi tạo ra nhiều mối đe dọa đối với mình. Đã đến lúc Bắc Kinh không thể không lo ngại đối với các hoạt động quân sự của các nước bên ngoài tại Biển Đông. Bởi ai biết được rằng trong quá trình tập trận đó, phương án giả định của tình huống diễn tập bất ngờ được chuyển thành phương án thật cho tình huống chiến tranh thì Trung Quốc có mà “trở tay không kịp”. Do đó, để đảm bảo chống bất ngờ trong mọi tình huống ở Biển Đông trong tương lai khi có một COC mới ra đời, Trung Quốc nhất thiết yêu cầu các nước phải đáp ứng điều kiện trên.
Xét cho cùng, điều kiện Trung Quốc yêu cầu các nước trong và ngoài khu vực muốn tập trận chung ở Biển Đông phải có sự đồng ý trước vẫn chỉ là xoay quanh mục tiêu đảm bảo cho tham vọng yêu sách chủ quyền theo cái gọi là “đường chín khúc” ở Biển Đông được hiện thực hóa. Chừng nào Bắc Kinh còn nuôi tham vọng này, thì chừng đó họ còn tìm mọi cách, mọi lý do, điều kiện để làm chậm hay gây cản trở, khó khăn cho tiến trình đàm phán COC. Vì vậy, các nước ASEAN, nhất là những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông phải kiên trì nhưng cũng hết sức cảnh giác, khôn khéo trong đàm phán thì mới mong có được COC thực chất.
Xu hướng theo chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông,
nguyên nhân bất ổn gia tăng và giải pháp đối phó
Gần đây, trước bối cảnh trên bàn hội nghị, Trung Quốc và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nỗ lực đàm phán hướng tới việc cho ra đời Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), nhưng trên thực địa lại diễn ra những cuộc “rượt đuổi” lẫn nhau giữa tàu thuyền của Trung Quốc với tàu thuyền của các nước trong khu vực như Việt Nam, Malaysia… báo chí trong khu vực Đông Nam Á đã có một số bài viết đưa ra đánh giá tổng quát về tình hình khu vực Biển Đông là: Vai trò và vị thế của Mỹ ở khu vực đang sa sút; trật tự dựa trên nguyên tắc đã được luật pháp quốc tế thừa nhận đang suy yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ nghĩa xét lại và thái độ quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh là nguyên nhân chính. Cách thức này đang diễn ra ở Biển Đông có thể coi là một tiền lệ nguy hiểm cho các điểm nóng quân sự khác trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đánh giá trên khiến giới nghiên
cứu khu vực và nhiều người quan tâm buộc phải đặt ra câu hỏi là chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông từ đâu mà ra và khu vực này nên làm gì để ứng phó với bất ổn ngày càng tăng do thứ chủ nghĩa này mang lại?
Chủ nghĩa xét lại vốn dĩ đã có từ lâu và đã từng hoành hành ở nhiều quốc gia, nhất là trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nó gây ra không ít đau khổ, thiệt hại mà xét cho cùng là đổ lên đầu người dân ở những nước có giới tinh hoa chính trị dung dưỡng nó. Những tưởng nó đã bị người ta quẳng vào sọt rác lịch sử rồi. Thế mà, cớ sao sang đến những năm đầu của thế kỷ XXI mà thứ chủ nghĩa này lại hiện diện ở Biển Đông mới lạ. Lý giải cho vấn đề này, báo chí khu vực cho rằng có hai lý do: Một là, trong những năm qua, trên khắp Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, sự phụ thuộc ngày càng tăng về kinh tế đã cho phép quốc gia đang nổi lên trong khu vực là Trung Quốc bắt đầu xét lại bản chất của các mối quan hệ quốc tế và trật tự dựa trên nguyên tắc lấy sự tuân thủ luật pháp dựa trên hiệp ước quốc tế làm nền tảng. Đây xem như là lý do chủ quan. Hai là, việc Mỹ “phớt lờ” khu vực này do bị chi phối bởi cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã tạo điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh chóng cán cân quyền lực chính trị và sức mạnh quân sự của các nước khác tại khu vực này, nhất là Trung Quốc. Rõ ràng đây là lý do khách quan.
Cần phải nói thêm một chút về lý do chủ quan và khách quan trên. Về chủ quan, Trung Quốc là một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, xét về mặt lý thuyết, đó phải là quốc gia có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; có quan hệ đối ngoại bình đẳng với các nước; sự phát triển của Trung Quốc cũng là sự phát triển của các nước khác, chứ không phải vì lợi ích riêng của Trung Quốc. Nói như người Trung Quốc thường tuyên truyền là “Trung Quốc đi trên con đường hợp tác để cùng thắng”. Đáng tiếc, những điều tốt đẹp trên được thể hiện ở đâu đó, chứ nhìn vào những gì thể hiện qua các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông thì không ai thấy, nghĩa là bản chất đích thực về một chế độ xã hội chủ nghĩa trong quan hệ quốc tế mà nước này thường tuyên bố là “hữu hảo, cùng thắng” đã không còn đúng nguyên nghĩa của nó. Còn về lý do khách quan, chiến lược “tái cân bằng” sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời cựu Tổng thống B.Obama đã bị “bắt bài” và trở nên vô dụng do Mỹ không kiên quyết trong việc kiềm chế Trung Quốc, mà ngược lại đã thi hành chính sách chủ nghĩa hòa bình với Bắc Kinh. Kết quả là, các chính sách theo chủ nghĩa xét lại trái với luật pháp quốc tế, sự hăm dọa đối với các nước khác trong khu vực của Trung Quốc ngày càng nổi lên.Trong khi đó, niềm tin của một số nước trong khu vực vào sức mạnh và chiếc ô an ninh của Mỹ ngày càng giảm sút, trật tự dựa trên nguyên tắc luật pháp quốc tế dần bị xói mòn, một môi trường hỗn loạn và quân phiệt hơn đang lấp vào chỗ trống ở khu vực.
Từ đó, không khó để giới nghiên cứu nhận ra hai biểu hiện nổi bật theo xu hướng của chủ nghĩa xét lại mà Trung Quốc đã thực thi ở Biển Đông:
Thứ nhất, dựa vào tốc độ phát triển kinh tế và tiềm lực quốc phòng, quân sự liên tục gia tăng, Bắc Kinh ngày càng thể hiện thái độ tự tin, quyết đoán hơn trên cả bình diện khu vực lẫn quốc tế.Thực tế cho thấy, trật tự khu vực bị “lung lay” có lẽ bắt đầu bằng cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, những cạnh tranh lẫn nhau ở châu Á giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt hơn kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008. Chiến lược “Giấu mình chờ thời” với chính sách “gây cảm tình” ban đầu của Bắc Kinh với các nước kể từ đó đã được thay thế bằng chiến lược “Xuất đầu lộ diện” đi cùng những hành động mang tính hăm dọa nhiều hơn và vấn đề gây chia rẽ lớn nhất giữa Mỹ, Trung trong khu vực Đông Á chính là những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông.
Bất chấp mọi nỗ lực của ASEAN, Trung Quốc đã vi phạm đáng kể các chuẩn mực theo Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sau đó nước này cũng liên tục vi phạm một cách trắng trợn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) thông qua những hoạt động như bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo trên quy mô lớn ở Biển Đông.
Trong phạm vi khu vực, việc Trung Quốc chiếm đoạt bãi cạn Scarborough từ tay Philippines vào năm 2012 là một sự kiện “mang tính bước ngoặt”. Mọi nỗ lực của Chính quyền Tổng thống B.Obama trong việc dàn xếp để Bắc Kinh và Manila cùng rút khỏi bãi cạn này đã thất bại. Tuy nhiên, điểm “chốt hạ” quan trọng là việc trong vòng trên dưới 3 năm, Bắc Kinh đã nhanh chóng xây dựng các đảo nhân tạo có diện tích gần 1.300 ha từ đầu năm 2013 đến năm 2016, giúp cho Trung Quốc dễ dàng triển khai các tiền đồn quân sự cách xa bờ hàng trăm hải lý để kiểm soát “nhất cử, nhất động” trên Biển Đông. Việc làm trên đã được một bài báo của Philippines ngày 31/07/2013 lần đầu tiên “báo động sớm” về khả năng Trung Quốc bồi lấp các bãi cạn, đảo chìm ở Trường Sa, nhưng phải đến tháng 02/2015, hình ảnh toàn diện về các đảo nhân tạo mới được công khai. Vào thời điểm đó, Mỹ và các đồng minh của họ, dù vô tình hay hữu ý, đã phớt lờ áp lực quốc tế yêu cầu họ phải ngăn chặn hành động xây dựng đảo – chẳng hạn như phong tỏa bằng hải quân, khi vấn đề xây dựng đảo vào thời điểm đó là sự đã rồi.
Thứ hai, lợi dụng sự “co thủ” trong các hoạt động kiềm chế của các nước, Trung Quốc đã thực thi có hệ thống nhiều biện pháp trái với luật pháp quốc tế để thực hiện tham vọng về chủ quyền ở Biển Đông. Chính phủ Trung Quốc và truyền thông nhà nước này thường xuyên tuyên truyền rằng, Bắc Kinh là “nạn nhân” của các chính sách kiềm chế phi lý của Mỹ và đồng minh. Họ đưa ra một số dẫn chứng như việc đồn trú của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ ở Darwin/Australia, các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ ở Biển Đông… để “la làng” về sự “bắt nạt” của Mỹ. Tuy nhiên, hầu như không có sự kiềm chế hiệu quả nào đối với các hành vi bất hợp pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông, vì thế họ càng liều lĩnh và trắng trợn hơn trong các hành động này. Có thể điểm lại những vi phạm trắng trợn của Bắc Kinh đối với luật pháp quốc tế và trật tự dựa trên nguyên tắc, thậm chí còn nặng nề hơn so với việc Bắc Kinh vi phạm UNCLOS 1982.Đó là: Năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; năm 1988, đánh chiếm 6 đảo đá của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa; năm 2012, chiếm đoạt bãi cạn Scaborough của Philippines bằng lực lượng quân sự. Ngoài ra, chưa kể các hành động hỗ trợ tàu Hải Dương 981 xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam năm 2014; đánh cá trộm tại vùng biển Indonesia năm 2016; quấy rối tàu thăm dò dầu khí của Malaysia tại bãi Luconia tháng 5/2019…
Câu hỏi đặt ra là, trước các hành vi của Trung Quốc, các nước trong khu vực nên có các hoạt động phản đối hay đầu hàng Bắc Kinh?Hãy xem những diễn biến cụ thể để có câu trả lời về vấn đề này.
Đầu năm 2017, trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông, Australia và Ấn Độ đã đưa ra lập trường đáp trả cứng rắn. Tại Đối thoại Shangri-La vào tháng 6/2017, Thủ tướng Australia lúc đó là ông Malcolm Turnbull đã tuyên bố rằng, khu vực này phải duy trì “cấu trúc dựa trên nguyên tắc” và “điều này đồng nghĩa với việc hợp tác, chứ không phải là chiến thắng thông qua tham nhũng, can thiệp hoặc hăm dọa”. Còn đối với Ấn Độ, trong suốt cuộc đối đầu với Trung Quốc trong tranh chấp biên giới diễn ra tại Doklam, Ấn Độ ngày càng trở nên cứng rắn hơn với Trung Quốc.
Cuối năm 2017, Ấn Độ, Australia, Nhật Bản và Mỹ đã nhất trí khôi phục Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ 2.0) vốn bị sụp đổ vào năm 2008 khi Australia rút khỏi các cuộc tập trận Malabar sau khi Trung Quốc gây áp lực. Cuộc họp đầu tiên giữa các quan chức cấp cao của Bộ tứ 2.0 đã được tổ chức vào tháng 11/2017, nội dung thảo luận bao gồm cả việc duy trì trật tự dựa trên nguyên tắc, an ninh biển và quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Tuy nhiên, do sự thiếu nhất trí về các vấn đề then chốt, nên các nước này đã không đưa ra được một thông cáo chung.
Đáng chú ý là, năm 2018 xuất hiện những dấu hiệu lẫn lộn về mức độ cam kết của Bộ tứ trong việc phản kháng đối với những vi phạm của Bắc Kinh. Tháng 4/2018, Thủ tướng Ấn Độ Modi đã có cuộc gặp thượng đỉnh với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh 3 bên giữa các nhà lãnh đạo của Nhật Bản, Hàn Quốc và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường hai tuần sau đó. Cả hai cuộc gặp này đều được các bên sử dụng ngôn từ nồng ấm một cách đáng ngạc nhiên và truyền thông nhà nước Trung Quốc tuyên bố rằng, cuộc gặp thượng đỉnh 3 bên đã “đưa mối quan hệ lạnh nhạt giữa Trung Quốc và Nhật Bản trở lại đúng lộ trình”.
Sự thiếu vắng vai trò dẫn dắt kinh tế của Washington sau khi họ từ bỏ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một khu vực thương mại tự do chiếm 40% GDP toàn cầu, đã mở đường cho Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốcđẩy nhanh các cuộc đàm phán về một Hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn khác không có Mỹ tham gia – Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Đương nhiên, Trung Quốc sẽ rất thèm muốn vai trò “lãnh đạo” trong Hiệp định này.
Hiện tại, có nhiều tranh cãi về tính thiết thực và tương lai của Bộ tứ 2.0, nhưng xuất phát từ sự thiếu vắng vai trò “cầm trịch” đáng kể của Mỹ và một “cú sốc” quốc tế để gắn kết 4 nước lại với nhau, Bộ tứ sẽ không có tác động rõ ràng đến sự đánh giá, phân tích giữa được và mất, giữa phí tổn và lợi ích của Bắc Kinh. Chẳng hạn, trong thời gian diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Ấn-Trung, New Delhi một lần nữa đã từ chối yêu cầu của Canberra tham gia trở lại các cuộc tập trận Malabar với tư cách là quan sát viên.Trong khi đó, niềm tin của khu vực vào Mỹ còn bị xói mòn hơn nữa do Chính quyền B.Obama đã giảm bớt 19% ngân sách hỗ trợ an ninh cho khu vực Đông Nam Á (năm 2010-2015) và Tổng thống Donald Trump vào năm 2018 cũng tuyên bố ý định giảm bớt tổng ngân sách thêm 24,4%.
Như vậy, phải chăng trật tự hậu Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ sụp đổ? Trung Quốc đã chứng tỏ có năng lực rất lớn trong việc tự làm mới bản thân cả ở trong nước lẫn trên trường quốc tế và những thành tựu trong một vài thập kỷ qua đối với một nước đông dân như vậy là chưa từng có tiền lệ. Vì thế, Bắc Kinh đang ngày càng xét lại những gì ảnh hưởng tới “lợi ích cốt lõi” của mình và có những hành xử thách thức đối với trật tự khu vực trong đó có vai trò lãnh đạo của Mỹ, các chuẩn mực và luật pháp quốc tế. Dựa trên xu hướng hiện tại để xem xét, trật tự châu Á – Thái Bình Dương hậu Chiến tranh thế giới thứ hai có vẻ như là đang bên bờ vực suy tàn trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Ngoài việc thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Mỹ, sự lưỡng lự lớn hơn của các nước tại chỗ trong việc ứng phó với các mối đe dọa khu vực cũng đang gây bất ổn sâu sắc. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào không có một quan điểm hài hòa hơn về những mối đe dọa then chốt mà trật tự dựa trên nguyên tắc mang tính ổn định phải đối mặt. Trong khi đó, một cuộc chiến thương mại tiềm tàng sẽ làm suy yếu trật tự kinh tế tự do và gây bất ổn hơn nữa cho khu vực.
Đối với những đánh giá cho rằng, Biển Đông trên thực tế sắp “mất” về tay Bắc Kinh có thể còn gây tranh cãi, vì đánh giá này dựa trên giả định không có thay đổi đáng kể nào trong cách tiếp cận của các nước trong khu vực về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu các nước trong khu vực hợp tác mạnh mẽ với nhau nhằm làm thay đổi những đánh giá, phân tích về được, mất của Bắc Kinh, thì tình hình có thể diễn ra những thay đổi tích cực. Để đạt được mục tiêu này, Biển Đông cần một bộ quy tắc ứng xử có ý nghĩa nhưng năng lực của ASEAN trong việc đàm phán về vấn đề này là điều còn phải xem xét.
Vậy câu hỏi đặt ra tiếp theo là các nước nên làm gì?
Trước hết, một nhóm nhỏ các nước ASEAN có thiện chí có lẽ cần đàm phán về bộ quy tắc hoặc các nước tuyên bố chủ quyền chính thuộc ASEAN thay vào đó có thể đưa ra một bộ quy tắc ứng xử với các nước có liên quan không thuộc ASEAN nhưng có vai trò then chốt và thể hiện nó như một sự đã rồi đối với Bắc Kinh. Còn cần rất nhiều điều nữa, trong đó có các hoạt động FONOP và các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển đa quốc gia. Các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển đa quốc gia có thể kiểm soát và bảo vệ các nguồn lực trong khu vực không có tranh chấp “về mặt pháp lý” thuộc Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một nước có thiện chí.Những hoạt động này cũng có thể áp dụng trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Để đạt được mục đích này, cần phải có các cuộc đối thoại chiến lược giữa những bên ủng hộ trật tự dựa trên nguyên tắc. Dù được dẫn dắt bởi các chính phủ hay bởi các tổ chức tư vấn chiến lược khu vực theo Kênh 1.5 (như là bước đi đầu tiên), thì một cuộc đối thoại như vậy có thể giúp điều phối các hoạt động đa phương và là nền tảng cho việc phát đi tín hiệu mạnh mẽ hơn tới Bắc Kinh. Thậm chí, cuối cùng sẽ cần có một hiệp ước phòng thủ chung để đảm bảo cho các phản ứng tập thể trước những nỗ lực về mặt quân sự nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở biển Hoa Đông, biển Bắc Natuna và những nơi khác.
Tiền lệ xảy ra ở Biển Đông và bán đảo Crimea sẽ khuyến khích hơn nữa các nước theo chủ nghĩa xét lại thực hiện thêm những hành động mang tính hăm dọa khi chính sách ngoại giao thất bại. Khu vực này không thể kỳ vọng Mỹ sẽ dốc sức bảo vệ.Nếu các nước tuân thủ nguyên tắc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hành động cùng nhau thì điều đó có thể tạo ra động lực lôi kéo Mỹ tái can dự vào khu vực một cách thực chất hơn và có tính xây dựng hơn. Bất cứ thất bại trên mặt trận nào cũng sẽ phát đi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng, nước này được hưởng lợi từ các hành động hăm dọa hoặc các hành động quân sự trong tương lai ở các vũ đài khu vực khác.
Việt Nam ‘xác minh’ thông tin
hải giám Trung Quốc vào vùng thềm lục địa
Hôm 5/12, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói phía Việt Nam “sẽ xác minh thông tin” một số tàu hải cảnh Trung Quốc hiện diện trong vùng thềm lục địa Việt Nam ngày 29/11.
Trang Infonet dẫn lời Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng khẳng định các lực lượng chức năng Việt Nam luôn giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trên vùng biển Việt Nam.
“Mọi hoạt động trên vùng biển của Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Công ước về Luật biển 1982 và các quy định liên quan của Việt Nam,” bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.
Trước đó, có thông tin tàu hải cảnh Trung Quốc mang số hiệu 35111 vừa quay lại vùng biển Việt Nam. “Đây là con tàu mà gần đây Trung Quốc sử dụng để gây rối các hoạt động dầu khí hợp pháp của Việt Nam và Malaysia,” trang Infonet cho biết.
Trả lời câu hỏi về thông tin Trung Quốc triển khai khinh khí cầu do thám Bãi Vành Khăn, báo PLO trích lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói:
“Việt Nam đề nghị các bên liên quan tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN, tuân thủ nghiêm túc luật pháp quốc tế, có những đóng góp có trách nhiệm và xây dựng trong việc duy trì an ninh, an toàn, hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông.”
0 comments