Tin Biển Đông – 09/09/2019
Biển Đông: Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam
Nếu căng thẳng hiện nay ở Biển Đông dẫn đến xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng mục tiêu mà Trung Quốc tấn công đầu tiên sẽ là Việt Nam.
Căng thẳng vùng Biển Đông tiếp tục sự chú ý đặc biệt của báo chí quốc tế, đặc biệt là những tờ báo chuyên về thờ i sự châu Á, như trang mạng Asia Times.
Ngày 05/09/2019, trang mạng này đã đăng tải một bài của nhà báo David Hutt với tựa đề « Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam ». Theo các nhà phân tích mà David Hutt trích dẫn, Việt Nam sẽ được Trung Quốc chọn để đánh như là một cách để « khởi động – làm nóng » trước khi lao vào một cuộc chiến lớn hơn với Mỹ trên vùng Biển Đông.
Trong phần tạp chí hôm nay, RFI Việt ngữ xin giới thiệu bài báo này :
Nếu căng thẳng hiện nay biến thành xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng là tiếng súng đầu tiên sẽ nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Hai bên đã đối đầu với nhau tại khu vực Bãi Tư Chính giàu nguồn năng lượng, mà không bên nào có vẻ muốn lùi bước. Trung Quốc vẫn chống lại việc những bên tranh chấp khác khai thác các nguồn tài nguyên tại những các vùng biển đang tranh chấp, nhưng cuộc đối đầu hiện nay với Việt Nam có thể phục vụ mục đích chiến lược kép (cho Bắc Kinh).
Derek Grossman, một nhà phân tích quốc phòng của RAND, một nhóm tư vấn tại Washington, lập luận rằng nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự ở Biển Đông, đối thủ được lựa chọn rất có thể sẽ là Việt Nam.
Trong năm nay, trước khi diễn ra cuộc đối đầu tại Bãi Tư Chính, ông Grossman đã từng viết rằng Việt Nam là « cuộc chiến khởi động ưa thích » của Bắc Kinh, với lý do Việt Nam chỉ là một quốc gia có sức mạnh cỡ trung bình, nên quân đội Trung Quốc dễ dàng đánh bại.
Mặc dù hiện giờ xung đột còn rất khó xảy ra, Bắc Kinh một lần nữa tăng cường xâm lấn và đẩy mạnh chính sách “ngoại giao pháo hạm”, qua việc gây sức ép buộc Hà Nội chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp.
Vào tháng 7, một tàu khảo sát của Trung Quốc, Hải Dương Địa Chất 8 , cùng với một đội tàu vũ trang, đã hoạt động suốt nhiều tuần tại khu vực gần Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Vào giữa tháng 8, sau khi dường như đã trở về Trung Quốc, tàu khảo sát này đã xuất hiện trở lại ở vùng biển Việt Nam nơi các công ty năng lượng Việt Nam và Nga đang cùng thăm dò dầu khí. Năm ngoái, áp lực tương tự từ Trung Quốc đã buộc Hà Nội phải hủy hợp đồng thăm dò dầu trị giá 200 triệu đôla đã ký với công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol.
Ngày 03/09/2019, có tin là chiếc tàu cẩu lớn nhất thế giới Lam Kình (Lanjing) đã được Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc đưa vào vùng biển Việt Nam, một hành động chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng.
Nếu đúng như thế, Trung Quốc và Việt Nam có thể sẽ tái diễn cuộc đối đầu gây cấn giữa hai bên năm 2014 , khi Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển mà Việt Nam khẳng định chủ quyền gần quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc đưa tàu cẩu Lam Kình vào vùng biển Việt Nam đúng vào lúc Việt Nam và chín thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tham gia các cuộc diễn tập hải quân chung đầu tiên với Hoa Kỳ.
Vụ này cũng diễn ra chỉ một tháng trước khi chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dự kiến sẽ có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Washington, và trong dịp này, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể nâng quan hệ song phương lên cấp « đối tác chiến lược ».
Quân đội Trung Quốc và Việt Nam đã từng đụng độ với nhau vào cuối năm 1988 tại Đá Gạc Ma, Trường Sa, khiến 64 binh sĩ Việt Nam tử trận. Vụ đụng độ này xảy ra sau một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979, mà trong đó cả hai bên đều mất hàng ngàn binh lính.
Tình hình nay đã thay đổi kể từ những cuộc xung đột ngắn ngủi đó. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) hiện là một trong những quân đội lớn nhất và được trang bị tốt nhất thế giới.
Vào năm 2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kêu gọi quân đội nước này chuyển đổi hoàn toàn thành một lực lượng tầm cỡ thế giới vào năm 2050. Tuy nhiên, người ta tin rằng giới lãnh đạo ở Bắc Kinh chưa an tâm về mức độ chuẩn bị của quân đội Trung Quốc để chiến đấu trong một cuộc xung đột quy mô lớn.
Do sự luân chuyển quan chức cấp cao kể từ cuộc xung đột thực sự cuối cùng vào năm 1979, hầu hết những người hiện nay chưa bao giờ biết đến chiến tranh.
Dennis Blasko, một nhà quan sát về quân đội Trung Quốc, vào tháng 2 đã lưu ý rằng, mặc dù đã đầu tư đáng kể vào vũ khí và công nghệ, và đã cải tổ sâu rộng về cơ cấu, nhưng vẫn có sự thiếu tin tưởng vào khả năng của quân đội Trung Quốc, trong khi đó các hệ thống giáo dục và huấn luyện của quân đội này đã thất bại trong việc đào tạo các viên chỉ huy và sĩ quan tham mưu cho các cuộc chiến tranh tương lai.
Theo ông Blasko, chính vì vậy mà các lãnh đạo cấp cao quân đội Trung Quốc rất ít nhiệt tình hoặc không chút nhiệt tình trong việc đưa quân đội nước này vào một cuộc chiến thực sự chống lại một kẻ thù hiện đại. Họ thiên về một cuộc chiến tranh kết hợp các lực lượng dân sự, chính phủ, bán quân sự và quân đội.
Cảm giác không an toàn này sẽ là yếu tố quyết định nước nào mà Trung Quốc coi là đối thủ « xứng đáng ». Theo nhận xét của ông Grossman, đánh Ấn Độ trên đất liền và trên núi cao trong dãy Hy Mã Lạp Sơn sẽ không có ích nhiều trong việc quân đội Trung Quốc chuẩn bị cho chiến tranh trên không và trên biển. Xung đột trên bán đảo Triều Tiên có thể sẽ quá dữ dội và quá gần Trung Quốc. Còn nếu
đánh Nhật Bản, Philippines hoặc Hàn Quốc, thì sẽ đụng với quân đội Mỹ, vì nước nào cũng đều có liên minh phòng thủ với Hoa Kỳ. Đạo luật Quan hệ Đài Loan thì dự trù là Washington phải bảo vệ hòn đảo này trong trường hợp Trung Quốc đưa quân xâm lược.
Theo cái nhìn của ông Grossman, Bắc Kinh có vẻ « thích một cuộc xung đột có thể thắng được » và Việt Nam về cơ bản yếu kém hơn Trung Quốc về khả năng, đào tạo và nhân lực.
Các nhà phân tích đều nhận thấy rằng Hà Nội đang ngày càng xem các vấn đề quân sự là nghiêm trọng, trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông leo thang qua từng năm.
Hãng tin Business Wire vào tháng 4 cho biết rằng chính phủ Việt Nam đã dành 5,1 tỷ đô la Mỹ cho chi tiêu quân sự trong ngân sách năm nay, khoảng một phần ba trong số đó sẽ dành cho việc mua sắm thiết bị quốc phòng. Một số nhà phân tích ước tính rằng chi tiêu quân sự của Hà Nội có thể tăng lên 7,9 tỷ đô la vào năm 2024.
Vào tháng 6, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, do bộ Quốc Phòng Việt Nam điều hành, đã đăng một bài viết về đào tạo quân sự và nhân lực của Việt Nam.Tác giả bài viết cảnh báo : « Việc đào tạo cán bộ trong quân đội không đồng đều và cân đối; nội dung và chương trình đào tạo vẫn còn chậm để đổi mới; việc cập nhật kiến thức và công nghệ quân sự mới trong đào tạo không cao hơn.»
Rõ ràng, Việt Nam có quân đội yếu hơn nhiều so với Trung Quốc. Việt Nam chi khoảng 5 tỷ đô la một năm cho quân đội của mình, trong khi Trung Quốc chi đến 220 tỷ đô la. Trung Quốc có quân số nhiều gấp năm lần so với Việt Nam và có số lượng máy bay gấp mười lần (3.187 so với 318) và có gần gấp 11 lần số tàu hải quân (714 so với 65). Trung Quốc cũng có thiết bị tốt hơn nhiều; Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân có tàu sân bay và tàu khu trục, hai phương tiện mà Việt Nam chưa có.
Hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng, do sự bất cân xứng này, chiến lược duy nhất mà Việt Nam có thể chọn đó là phòng thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Tuy nhiên, dường như không có sự đồng thuận về vấn đề này trong giới lãnh đạo Hà Nội.
Trong một bài viết cho Tạp chí Quốc phòng Toàn dân ngày 30/08/2019, bộ trưởng Thông Tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên là một thiếu tướng trong quân đội Việt Nam và là cựu chủ tịch Viettel, một tập đoàn thuộc sở hữu của quân đội, đã viết : « Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra với đất nước chúng ta, đó sẽ là một cuộc chiến của nhân dân để bảo vệ một đất nước phát triển chống lại sự xâm lược của kẻ thù. »
Tuy nhiên, ông lưu ý : « Trong các cuộc chiến tranh chống lại tổ tiên ta trước đây và Đảng ta sau này, nước ta thường phải đối mặt với kẻ thù với sức mạnh quân sự vượt trội, nhưng chúng ta vẫn coi tấn công là tư tưởng chủ đạo, thay vì thụ động hay phòng thủ thụ động ».
Ông Nguyễn Mạnh Hùng sử dụng cụm từ « phòng thủ tích cực » tương tự như cụm từ được sử dụng vào những năm 1980 bởi nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó là Đặng Tiểu Bình.
Điều này chắc chắn cho thấy các quan chức cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam đang cân nhắc nghiêm túc khả năng xảy ra chiến tranh, và cách thức mà cuộc chiến này xảy ra. Do đó, có lẽ không phải ngẫu nhiên mà đảng Cộng Sản đã dành cho các tờ báo nhiều thời gian hơn để viết về kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm nay.
Những thông tin trước đó trong năm nay cho thấy Việt Nam đã âm thầm mở rộng lực lượng dân quân biển và trang bị thêm cho lực lượng cảnh sát biển để chuẩn bị đối phó với các lực lượng tương tự của Trung Quốc.
Do sự chênh lệch về sức mạnh quân sự, khả năng răn đe lớn nhất của Việt Nam chính là thông qua các quan hệ đối tác quốc tế. Và Hà Nội đã rất bận rộn với việc kết bạn mới.
Chẳng hạn, tháng trước, Việt Nam đã đồng ý mở rộng quan hệ quốc phòng với Nam Phi, trong khi thủ tướng Úc Scott Morrison vừa tái khẳng định hợp tác quân sự giữa hai nước trong chuyến thăm Hà Nội.
Việt Nam cũng đã ký các thỏa thuận quốc phòng mới với Liên Hiệp Châu Âu và Nhật Bản trong năm nay. Tuy nhiên, quan trọng nhất đối với Hà Nội đó là giành được nhiều bảo đảm chiến lược hơn từ kẻ thù cũ Hoa Kỳ.
Chuyến thăm sắp tới của ông Trọng đến Washington vì vậy rất quan trọng. Quan hệ hiện nay giữa Mỹ với Việt Nam đã rất là tốt rồi, nhưng nếu hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ chiến lược, thì đây sẽ là một tín hiệu mạnh mẽ hơn cho thấy Mỹ đang yểm trợ Việt Nam, và đóng vai trò răn đe lâu dài đối với Trung Quốc.
Gần như chắc chắn hai bên sẽ chỉ sẽ dừng lại ở một hiệp ước quốc phòng, vì chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam gọi là « Ba Không » cấm Hà Nội ký hiệp ước quân sự với các quốc gia khác.
Tuy nhiên, một quan hệ đối tác không có điều kiện có thể cho phép có thêm nhiều chuyến thăm của tàu hải quân Hoa Kỳ đến Việt Nam – điều mà Washington mong muốn – và có lẽ là một cam kết của Hà Nội để mua thêm vũ khí từ Mỹ.
Việt Nam hiện mua khoảng bốn phần năm thiết bị quân sự từ Nga và một phần mười từ Israel. Đổi lại việc Hà Nội mua nhiều vũ khí hơn, Washington có thể sẽ làm rõ về việc liệu Việt Nam có sẽ bị xử phạt theo đạo luật Chống các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA), dự trù trừng phạt các quốc gia mua vũ khí từ Nga, hay không.
Việt Nam đã tạm thời được miễn CAATSA, và cựu bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đã tìm cách miễn hẳn cho Việt Nam. Nhưng để được miễn trừ lâu dài hơn, Hà Nội phải cho thấy rằng họ đang giảm sự phụ thuộc vào vũ khí nhập từ Nga. Cũng qua việc mua thêm vũ khí của Mỹ, Việt Nam sẽ giảm thặng dư thương mại đáng kể với Mỹ, vẫn gây bực bội cho chính quyền Donald Trump.
Washington đã kiên quyết chống lại các hành động mới nhất của Bắc Kinh ở Biển Đông, mà bộ Ngoại Giao Mỹ mô tả là « sự can thiệp mang tính cưỡng ép » đối với các hoạt động dầu khí từ lâu của Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Mỹ vào tháng trước cho rằng Trung Quốc đang tìm cách ngăn chận việc tiếp cận nguồn dầu khí chưa được khai thác ở vùng Biển Đông, được ước tính khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la.
Bộ Quốc Phòng Mỹ trong một báo cáo năm ngoái đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế giới và là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiên lớn thứ ba. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào khí đốt nhập khẩu, chiếm 67% nhu cầu trong năm 2017, tỷ lệ này có thể tăng lên 80% vào năm 2035, cho nên các nguồn tài nguyên chưa được khai thác ở Biển Đông lại càng quan trọng đối với Trung Quốc.
Hoa Kỳ sẽ cần phải chứng minh rằng họ nghiêm túc trong việc bảo đảm an ninh cho Việt Nam đối với Trung Quốc. Hà Nội chắc vẫn còn nhớ rằng tổng thống Barack Obama thời đó đã từ chối bảo vệ một đồng minh có hiệp ước với Mỹ, khi Trung Quốc chiếm giữ bãi cạn Scarborough từ Philippines năm 2012. Obama cũng không hỗ trợ gì cho Việt Nam trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.
Phần lớn chính sách của Trump cũng đi theo hướng đó, đưa ra những tuyên bố nghiêm khắc, nhưng không kèm theo hành động, khi Trung Quốc thành công buộc Việt Nam phải hủy bỏ các hợp đồng thăm dò dầu khí vào năm ngoái và năm 2017 tại các khu vực Biển Đông đang tranh chấp.
Các hành động gây áp lực của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính và việc điều tàu cẩu vào vùng biển Việt Nam càng nguy hiểm hơn, vì kể từ nay các tàu của họ có thể tiếp cận các cơ sở hải quân và không quân mới trên các các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Biển Đông.
Điều này có nghĩa là các tàu đó không còn cần phải quay trở lại Hoa lục để tiếp nhiên liệu và bảo trì trong các chuyến hành trình vào Biển Đông. Điều đó cũng có nghĩa là họ có thể tuần tra gần bờ biển Việt Nam hơn và trong thời gian dài hơn.
Nếu cuộc đối đầu với Việt Nam leo thang thành một cuộc đối đầu vũ trang, thì đó có thể là cuộc trắc nghiệm về sự sẵn sàng của Trung Quốc cho một cuộc chiến tranh lớn hơn có thể xảy ra ở vùng biển tranh chấp này trong những năm tới.
Ấn độ thách thức ảnh hưởng của Trung Cộng
ở Biển Đông khi hợp tác với Nga
Tin từ Vladivostok – Theo tin từ South China Morning Post, Ấn Độ đang thách thức ảnh hưởng của Trung Cộng ở Biển Đông, khi tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực, bao gồm Nga, với thỏa thuận mở tuyến đường hàng hải mới qua Biển Đông.
Các viên chức Ấn Độ và Nga đã ký biên bản ghi nhớ về tuyến hàng hải mới tại Diễn đàn Kinh tế Phương Đông (EEF) ở thành phố Vladivostok, với sự tham gia của Tổng thống Nga Vladimir Putin và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. Tuyến đường hàng hải mới kéo dài từ Vladivostok, Nga, đến Chennai, Vịnh Bengal, Ấn Độ. Đáng chú ý, tuyến đường này sẽ đi qua Biển Đông, nơi Trung Cộng đang leo thang căng thắng với các quốc gia trong khu vực.
Bên cạnh tăng cường hợp tác hàng hải, Ấn Độ và Nga cũng mở rộng các hoạt động chung trong lĩnh vực quân sự và kỹ thuật. Thông tin này xuất hiện sau khi New Delhi đồng ý mua các hỏa tiển phòng không S-400 của Nga. Nhà nghiên cứu Hu Zhiyong thuộc Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải nhận xét, đây là tín hiệu cho thấy hợp tác Nga – Ấn đã tới giai đoạn quan trọng. Nga đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng tại châu Á, hợp tác với New Delhi sẽ giúp đối phó với ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Ông Modi khẳng định tuyến hàng hải này phù hợp với chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ, trong đó đề cao hợp tác chính trị và kinh tế với các nước Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng cam kết cho Nga vay 1 tỷ Mỹ kim để phát triển kinh tế khu vực Viễn Đông.
Nhưng nhiều nhận định cho biết Ấn Độ sẽ kìm chế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh về tranh chấp Biển Đông. Sức mạnh quân sự và kinh tế ngày càng tăng của Trung Cộng trong khu vực cũng khiến Mỹ và các đồng minh Nhật Bản và Úc lo lắng. (Mộc Miên)
Dư luận quốc tế lên án
các hành động phi pháp của TQ ở Biển Đông
Trang Eurasia Review mới đây đăng bài của một nhà báo kỳ cựu Indonesia phản đối những hành động phi pháp của Trung Quốc tại Biển Đông, đặc biệt tại khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam.
Bài báo khẳng định những động thái mới của Trung Quốc trên Biển Đông đã vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà chính quốc gia này đã ký kết và là nguyên nhân làm cho tình hình Biển Đông xấu đi. Tác giả cũng đánh giá cao việc Việt Nam thẳng thắn yêu cầu Trung Quốc rút ngay các tàu của họ ra khỏi khu vực bãi Tư Chính.
Bài viết nêu rõ hành động của Trung Quốc tại Biển Đông đã bị nhiều quốc gia và tổ chức phi chính phủ lên án. Mỹ đã chỉ trích các hành động đơn phương, mang tính khiêu khích của Trung Quốc. Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Pháp, Đức, Anh, Canada, Australia và một số quốc gia khác cũng chỉ
trích các hành động đơn phương của Trung Quốc tại Biển Đông và kêu gọi bảo vệ một trật tự dựa trên luật pháp quốc tế. Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế (IADL) cũng chỉ trích Trung Quốc vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam ở khu vực Bãi Tư Chính.
Trong thông cáo ngày 6/8, IADL khẳng định các hành vi của Trung Quốc đã vi phạm rõ rệt các quyền của Việt Nam được ghi trong UNCLOS và “yêu cầu Trung Quốc nhanh chóng chấm dứt các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, làm gia tăng căng thẳng giữa các bên liên quan và tập trung vào việc xây dựng lòng tin để duy trì an ninh, hòa bình và ổn định ở Biển Đông nói riêng và khu vực nói chung”.
Theo tác giả bài viết, việc đầu tiên và quan trọng nhất mà ASEAN và cộng đồng quốc tế cần làm để ngăn chặn Trung Quốc là lên án các hành động khiêu khích đơn phương của Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước Đông Nam Á.
Tác giả cho rằng ASEAN cần đoàn kết, tạo ra nhận thức chung trong khối về vấn đề Biển Đông. Ngoài ra, ASEAN cần xúc tiến việc thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) để giảm căng thẳng và tránh xung đột, đồng thời nhanh chóng tiến đến một Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) hiệu quả, ràng buộc về mặt pháp lý, dựa trên UNCLOS và các quy tắc quốc tế khác.
Trong khi đó, báo The Times of India của Ấn Độ ngày 4/9 đăng bài cho rằng các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là yếu tố khuyến khích các nước phối hợp để giải quyết vấn đề này.
Theo bài viết, những tháng vừa qua là giai đoạn căng thẳng ở khu vực Biển Đông. Trung Quốc đã và đang thực hiện những hành động đơn phương đe dọa hòa bình và an ninh khu vực. Tuy nhiên, bài viết cho rằng các quốc gia Đông Nam Á và những nước có lợi ích ở Biển Đông đã có những tín hiệu cứng rắn. Tại Maldives, Hội nghị Ấn Độ Dương nhóm họp trong hai ngày 3 – 4/9 với trọng tâm là an ninh hàng hải, tự do hàng hải, thực thi UNCLOS năm 1982 và phát triển cơ chế khu vực hiệu quả để hiện thực hóa các quy tắc quốc tế. Gần đây, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad tới Việt Nam, hai bên đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự kiềm chế, phi quân sự hóa và tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Mở đường biển mới đi qua Biển Đông,
Nga-Ấn cạnh tranh với TQ?
Việc Nga và Ấn Độ nhất trí mở tuyến đường chiến lược có 1 phần đi qua Biển Đông liệu có phải nhằm cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc trong khu vực?
Nga – Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc ở Biển Đông?
Ấn Độ đang thách thức ảnh hưởng của Trung Quốc ở Biển Đông khi hợp tác với các quốc gia trong khu vực, trong đó có Nga bằng việc nhất trí xây dựng một tuyến đường biển mà một phần của tuyến đường đó sẽ đi qua Biển Đông.
Theo một biên bản ghi nhớ mà Nga và Ấn Độ – hai đồng minh an ninh truyền thống đã ký kết với nhau tại diễn đàn kinh tế khu vực tuần trước, một tuyến đường biển Ấn Độ – Thái Bình Dương sẽ mở rộng từ thành phố cảng Vladivostok ở vùng Viễn Đông của Nga tới Chennai nằm trên Vịnh Bengal ở phía đông Ấn Độ.
Tuyến vận chuyển này sẽ có một đoạn đi qua Biển Đông – khu vực vẫn đang “nóng” những tranh cãi về chủ quyền giữa Trung Quốc với các quốc gia láng giềng nhiều năm qua.
Trong một tuyên bố chung được đưa ra tại diễn đàn kinh tế ở Vladivostok, Nga, ngoài hợp tác tại tuyến đường biển này, Ấn Độ và Nga cũng tăng cường các hoạt động quân sự và hợp tác trong lĩnh vực công nghệ. Quan hệ đối tác này có thể “bao gồm việc thiết lập sự hợp tác chung, cùng nhau sản xuất các thiết bị quân sự, các phụ tùng và bộ phận thay thế cũng như cải thiện hệ thống dịch vụ hậu mãi (after sales services)”.
Tuyên bố nhằm khẳng định sự hợp tác quân sự rộng rãi hơn giữa Nga và Ấn Độ được đưa ra chỉ 1 năm sau khi New Delhi đồng ý mua hệ thống tên lửa đất đối không S-400 do Moscow sản xuất.
“Điều này cho thấy sự hợp tác của Ấn Độ với Nga hiện nay đã tiến tới một giai đoạn đáng kể. Trong khi Nga đang tìm kiếm cơ hội mở rộng ảnh hưởng ở châu Á, sự hợp tác với Ấn Độ, ở một mức độ nào đó, có thể giúp Moscow đối phó với ảnh hưởng của Bắc Kinh tại khu vực này”, chuyên gia Hu Zhiyong tại Viện Quan hệ Quốc tế thuốc Học viện Khoa học xã hội Thượng Hải nhận định.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cho biết tuyến đường biển sắp mở phù hợp với chính sách “Hành động phương Đông” của nước này nhằm làm sâu sắc mối quan hệ về kinh tế và chính trị giữa New Delhi với các quốc gia Đông Nam Á.
Với hơn 55% hoạt động thương mại đi qua Biển Đông – tuyến đường biển quan trọng ở châu Á và Eo biển Malacca, Ấn Độ – nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới và lớn thứ 3 châu Á phải đối mặt với những đe dọa chiến lược ở Biển Đông khi những tranh chấp lãnh thổ trong khu vực này vẫn chưa được giải quyết.
Trung Quốc, với những tuyên bố chủ quyền phi lý đã bác bỏ việc các đối tác bên ngoài khai thác dầu và nguồn dự trữ khí tại các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Nước này cũng triển khai các tàu phi quân sự nhằm làm gián đoạn hoạt động khai thác dầu khí nước ngoài trong khu vực.
Căng thẳng khu vực leo thang ở Biển Đông khi gần đây, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Các nhà phân tích cho biết động thái này có thể là một phần nỗ lực của Bắc Kinh nhằm ngăn cản các hoạt động khai thác dầu khí chung giữa Việt Nam và công ty năng lượng Rosneft của Nga.
“New Delhi lo ngại về động thái mới và các tuyên bố lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông”, học giả Rajeev Ranjan Chaturvedy tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam thuộc Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore đánh giá.
“Những lợi ích ngày càng tăng của Ấn Độ tại Biển Đông cũng thể hiện qua sự nhận thức của New Delhi trên tất cả các lĩnh vực về lợi ích hàng hải và sự theo dõi sát sao những diễn biến khu vực có thể ảnh hưởng tới lợi ích của quốc gia này”, chuyên gia Chaturvedy cho biết thêm.
Sự hợp tác “định mệnh” Nga – Ấn Độ
Ngày 5/9, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã khẳng định rằng: Nga và Ấn Độ sẽ bắt đầu một kỷ nguyên hợp tác mới tại khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương nhằm khiến khu vực này “cởi mở và tự do” giữa bối cảnh Trung Quốc đang tăng cường các hoạt động quân sự ở khu vực chiến lược này.
Sau Hội nghị Thượng đỉnh thường niên giữa Ấn Độ và Nga vừa diễn ra ở Vladivostok tuần qua, các nhà quan sát đặt ra những câu hỏi về các lợi ích sâu sa đằng sau sự hợp tác của 2 quốc gia này.
Nga và Ấn Độ đã, đang và sẽ có nhiều lý do để tiếp tục hợp tác chặt chẽ hơn nữa với nhau.
Trước tiên, rõ ràng cả Nga và Ấn Độ đều nhận thấy hai bên dường như xảy ra rất ít các vấn đề chính trị. Gần đây, Bộ trưởng Các vấn đề Đối ngoại của Ấn Độ S. Jaishankar đã chỉ ra rằng quan hệ Nga – Ấn vẫn là một nhân tố tương đối ổn định trong quan hệ quốc tế kể từ Chiến tranh Lạnh.
Thứ hai, 2 nước này cũng đang tăng cường hợp tác kinh tế chặt chẽ với nhau, điển hình là việc gần đây Thủ tướng Narendra Modi đã tham gia Diễn đàn Kinh tế phương Đông như một khách mời chính nhằm thúc đẩy sự đầu tư của các doanh nghiệp Ấn Độ vào vùng Viễn Đông của Nga. Là một phần trong hiệp định hợp tác, Ấn Độ hứa sẽ cung cấp cho Nga một khoản vay “chưa từng có tiền lệ” lên tới 1 tỷ USD nhằm phát triển vùng viễn đông giàu tài nguyên của nước này.
Thứ ba và cũng là quan trọng nhất, thực tế cho thấy cả Ấn Độ và Nga đều có lợi ích chung trong việc giảm sự phụ thuộc và Mỹ và Trung Quốc đối với những vấn đề có tầm quan trọng trong khu vực. Trong khi Ấn Độ đang bị Mỹ “lôi kéo” nhằm tăng cường quan hệ đối tác quân sự qua nhiều sáng kiến khác nhau, chẳng hạn như Quad thì sự gắn kết chiến lược gần đây của Nga với Trung Quốc cũng không đảm bảo sẽ dài lâu.
Vì vậy hợp tác Nga – Ấn giống như một kết quả đã được định trước. Cả New Delhi và Moscow đều có thể có những lợi ích lớn từ sự hợp tác này trong bối cảnh Washington và Bắc Kinh gia tăng căng thẳng địa chính trị ở “mặt trận châu Á”. Trong khi Trung Quốc không có dấu hiệu gì sẽ giảm sự hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương thì Mỹ vẫn tiếp tục kêu gọi các quốc gia “cùng chí hướng” theo dõi các động thái của Bắc Kinh.
Cũng tại khu vực này, Nga và Ấn Độ đều có một chiến lược riêng để thực hiện những toan tính của mình. Nếu như New Delhi muốn tránh tác động của sự đối đầu địa chính trị Mỹ-Trung thì Moscow ấp ủ một chiến lược “hấp dẫn” dưới hình thức của Diễn đàn Kinh tế phương Đông nhằm xây dựng mối quan hệ chiến lược với các nước châu Á để hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang tìm cách đa dạng hóa các sự lựa chọn ngoài việc tham gia vào sáng kiến của Mỹ, đồng thời ưu tiên hướng tiếp cận dựa trên đánh giá về nhiều bên liên quan. Điều này cũng được Nga thực hiện để phù hợp với các lợi ích của mình bởi Moscow hiểu rằng tốt hơn là không nên “đặt tất cả trứng vào giỏ” của Trung Quốc. Nga đang xem xét đến việc mở rộng quan hệ với các nước châu Á khác như Ấn Độ, Việt Nam và Indonesia thay vì chỉ dựa vào Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến Viễn Đông, Trung Á và châu Á nói chung.
Sự hợp tác của Ấn Độ và Nga đã phản ánh những thực tế địa chính trị mới trong môi trường quốc tế đa cực và đa lợi ích. Tuy nhiên, giữa bối cảnh đối đầu Mỹ – Trung vẫn chưa “hạ nhiệt”, Nga – Ấn sẽ cần hành động nhiều hơn để duy trì sự hợp tác này một cách lâu dài và thực tế. Mối quan hệ này, nếu có thể được thúc đẩy ngày càng chặt chẽ hơn thì nó không chỉ nâng quan hệ song phương giữa hai nước lên một mức độ mới mà còn đem đến những kỳ vọng về việc các vấn đề trong khu vực sẽ được giải quyết hiệu quả.
0 comments