Tin Biển Đông – 03/07/2019
Lầu Năm Góc:
TQ phóng tên lửa gần Trường Sa ‘đáng lo ngại’
Lầu Năm Góc đã chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc mới đây phóng tên lửa ở Biển Đông, nói rằng hành động này trái với cam kết của Bắc Kinh về việc không quân sự hóa ở vùng biển tranh chấp.
Ngày 2-7 (giờ Mỹ), trong một tuyên bố lên án động thái của Trung Quốc, Lầu Năm Góc chỉ trích việc Trung Quốc phóng tên lửa đạn đạo chống hạm ở Biển Đông là hành động “đáng lo ngại”, trái với các cam kết của Bắc Kinh về việc không quân sự hóa ở vùng biển tranh chấp.
“Dĩ nhiên, Lầu Năm Góc hay biết về vụ phóng tên lửa của Trung Quốc từ các cấu trúc nhân tạo nằm gần quần đảo Trường Sa (của Việt Nam) ở Biển Đông” – Trung tá Dave Eastburn, người phát ngôn Lầu Năm Góc, cho biết.
Trước đó, một quan chức Mỹ giấu tên cho hay Trung Quốc đã phóng nhiều tên lửa đạn đạo chống hạm vào cuối tuần qua. Tin tức về việc Trung Quốc phóng tên lửa ở Biển Đông lần đầu được Đài NBC News tường thuật. Tuy nhiên, bản tin của NBC News không nêu rõ địa điểm phóng.
Thông tin được công bố chỉ vài ngày sau khi Cục Hải sự tỉnh Hải Nam, Trung Quốc thông báo quân đội Trung Quốc sẽ tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài gần 1 tuần từ ngày 29-6 đến 3-7 ở phía bắc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Báo Diplomat nhận định các vụ phóng lửa đạn đạo chống hạm trên sẽ đánh dấu một loại hoạt động quân sự mới đáng chú ý của quân đội Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung tá Dave Eastburn nhấn mạnh: “Ở đây, tôi không định nói thay mặt tất cả quốc gia có chủ quyền trong khu vực. Nhưng tôi chắc chắn họ đều nhất trí rằng hành vi của Trung Quốc trái với tuyên bố của nước này về việc muốn mang hòa bình đến với khu vực.
Rõ ràng những hành động như thế này là hành động cưỡng ép nhằm dọa dẫm các bên có yêu sách chủ quyền khác ở Biển Đông”.
Tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D của Trung Quốc trong một lễ duyệt binh ở Bắc Kinh – Ảnh: GETTY
Biển Đông là một trong nhiều điểm nóng đáng chú ý trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, bên cạnh chiến tranh thương mại, các lệnh trừng phạt của Mỹ và vấn đề Đài Loan
Washington liên tục chỉ trích việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông khi xây dựng các đảo nhân tạo trái phép và triển khai các vũ khí đến đây.
Hồi cuối tháng 5, phát biểu bên lề Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Quyền bộ trưởng quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan chỉ trích các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông thời gian qua là “quá đáng”.
Ông Shanahan nói rằng việc Trung Quốc xây dựng các đường băng dài hàng ngàn mét, lắp các tên lửa đất đối không trên các đảo nhân tạo xây dựng phi pháp ở Biển Đông đã “tàn phá quá mức”, vượt ra ngoài cái gọi là biện pháp tự vệ như Bắc Kinh tuyên bố.
“Hùng hục” xây cất và quân sự hóa biển Đông,
TQ đang trả giá đau đớn như thế nào?
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang nỗ lực tạo ra sản phẩm lớp phủ mới nhằm bảo vệ vũ khí và cơ sở hạ tầng được lắp đặt [trái phép] trên các đảo nhân đạo ở biển Đông.
Trung Quốc đau đầu vì khí tài, cơ sở vật chất bị bào mòn ghê sớm
Nhà nghiên cứu giấu tên tiết lộ với tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP), “một khẩu pháo đã bị đưa ra khỏi biên chế chỉ sau 3 tháng phục vụ do gặp vấn đề rỉ sét”.
Không chỉ có vũ khí gặp rủi ro. Các radar và hệ thống phóng tên lửa, tường cảng, hạ tầng và đường băng sân bay, đường ống, thậm chí cả phần nền mà Trung Quốc sử dụng để xây dựng trái phép các đảo nhân tạo trên đó đều đứng trước nguy cơ bị hủy hoại nhanh chóng do điều kiện thời tiết khắc nghiệt trên biển Đông.
Nhằm bảo vệ những tài sản giá trị, Quân giải phóng nhân dân (PLA) đã lập kế hoạch phủ lớp bảo vệ graphene cho các khí tài và cơ sở hạ tầng. Graphene là vật liệu được các nhà nghiên cứu Đại học Manchester (Anh) phát triển từ năm 2004, với độ dày chỉ bằng 1 nguyên tử nhưng lại cứng hơn thép đến 100 lần.
Một viện nghiên cứu quân sự ở Thượng Hải đã tiến hành bài thử nghiệm cuối cùng cho lớp phủ graphene trước khi nó được đưa vào thực tế.
Nguồn tin của SCMP cho hay, lớp phủ bảo vệ của PLA được phát triển tại thành phố Ninh Ba, thủ phủ tỉnh Giang Tô, được cho là có giá thành thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường, chi phí chỉ khoảng 38-60 tệ/kg (5.5-8.7 USD) so với mức 300-900 tệ của các mặt hàng khác hiện nay.
Mặc dù vật liệu phủ chưa được phê duyệt để ứng dụng vào quân sự, nhà nghiên cứu khẳng định nó đã được áp dụng trong các lĩnh vực tư nhân và “hết sức hữu dụng” trong ngành công nghiệp hóa chất, khi được dùng để bảo vệ các đường ống khỏi bị ăn mòn bởi acid, áp suất hay sức nóng cao.
“Những thách thức đó còn ghê gớm hơn [điều kiện thời tiết] ở biển Đông,” nhà nghiên cứu chính phủ Trung Quốc nói với SCMP. “Dây chuyền sản xuất của chúng tôi đang hoạt động hết công suất để đáp ứng nhu cầu.”
“Các phiên bản lớp phủ tương lai sẽ được sử dụng trên chiến đấu cơ và tàu sân bay, và sẽ tăng cường khả năng tàng hình của chúng.”
Cái giá phải trả khi Trung Quốc bành trướng vô tội vạ
Hu Qigao, giáo sư Đại học công nghệ quốc phòng Trung Quốc ở tỉnh Hồ Nam, chỉ ra rằng các công trình xây dựng đảo nhân tạo [phi pháp] mà Trung Quốc tiến hành ở biển Đông trong giai đoạn 2013-2015 đã được hoàn thành một cách gấp gáp và do đó vấp phải hàng loạt vấn đề.
“Vì những lý do lịch sử, nước ta đã không nghiên cứu đầy đủ môi trường tự nhiên ở biển Đông cũng như tác động của nó đến các cấu trúc kỹ thuật trên những đảo đá. Việc thiết kế và xây dựng các dự án đảo đá được tiến hành theo lịch trình gò bó và không có được những đánh giá khoa học sâu sát, dài hạn,” ông Hu viết trong báo cáo xuất bản trên tờ Defence Technology Review.
Các nhân tố tác động được nêu gồm nhiệt độ, độ ẩm cao, sương mù, nồng độ muối trong không khí và bức xạ nhiệt lớn. Tốc độ hao mòn của các trang thiết bị và vật liệu đưa ra biển Đông khiến PLA phải ngạc nhiên – ông Hu nói.
“Các cấu trúc bê tông bắt đầu bị tan ra sau chưa đầy 3 năm, và các trang bị kim loại ngừng vận hành sau khoảng 1 năm do bị ăn mòn,” ông Hu viết trong báo cáo.
Những vấn đề trên đã gây ra lo ngại về an toàn, cũng như lo lắng về khả năng các cơ sở [trái phép] của Trung Quốc chống chịu được trước những thảm họa tự nhiên như bão và sóng thần.
“Sự ăn mòn nhanh chóng không chỉ tác động nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của các cấu trúc kỹ thuật và cơ sở hạ tầng, mà còn gia tăng đáng kể chi phí vận hành và duy tu.”
Rỉ sét khí tài là vấn đề lớn đối với quân đội các nước. Tình trạng ăn mòn trên chiến đấu cơ, tàu chiến, tên lửa và vũ khí hạt nhân khiến Mỹ tiêu tốn khoảng 21 tỉ USD mỗi năm – SCMP dẫn báo cáo của Lầu Năm Góc hồi năm ngoái.
PLA chưa công bố những số liệu liên quan, song Viện khoa học Trung Quốc (CAS) từng nêu hồi năm 2017 rằng hiện tượng ăn mòn đã tiêu hao của Trung Quốc khoảng 300 tỉ USD vào năm 2014, tương đương 3% GDP nước này.
Zhang Lei, giáo sư từ trung tâm về ăn mòn và bảo vệ tại Đại học khoa học công nghệ Bắc Kinh, cho biết ngay cả vật liệu graphene cũng tồn tại vấn đề riêng. Graphene thuần chất là một chất dẫn điện tốt, cho nên bất kỳ vết rạn nứt nào trên bề mặt lớp phủ có thể làm gia tăng tốc độ ăn mòn vật chất do dòng điện.
Graphene cần phải được kết hợp với các vật liệu khác để làm giảm tính dẫn diện của nó, và việc tìm ra vật liệu phù hợp thì không dễ dàng – ông Zhang phân tích.
Cui Gan, giáo sư tại Đại học dầu khí Trung Quốc, nhà nghiên cứu các vật liệu bảo vệ trên nền tảng graphene, cho biết việc sản xuất hàng loạt các tấm carbon mỏng có thể gặp khó khăn bởi các tấm này khó tách rời khỏi nhau. Dù vậy, các vấn đề tương tự có thể được xử lý trong các phòng thí nghiệm vẫn đang nghiên cứu về vật liệu graphene.
“Đây là loại vật liệu của hy vọng,” Cui nói.
Bộ Quốc phòng TQ lại ngụy biện
và nêu quan điểm sai trái về Biển Đông
Trả lời phỏng vấn thường kỳ, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường (27/6) tiếp tục đưa ra nhiều tuyên bố ngụy biện về các hoạt động phi pháp ở Biển Đông.
Liên quan việc Trung Quốc triển khai trái phép tiêm kích J-10 tới đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.Ông Nhậm Quốc Cường giải thích sai trái rằng “đó là lãnh thổ của Trung Quốc và không có tranh chấp” dù trên thực tế là quốc tế không hề công nhận điều Trung Quốc nói (Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm). Với nhận thức sai lầm, ông Nhậm còn lên giọng thách thức: “Đó là quyền hợp pháp của các quốc gia có chủ quyền khi triển khai các căn cứ và tiến hành huấn luyện trên lãnh thổ của mình. Các hành động bên phía Trung Quốc là hợp pháp, hợp lý và công bằng và các bên liên quan không nên ngạc nhiên”.
Liên quan việc Trung Quốc triển khai mạng 5G cho binh lính đồn trú trên đảo và các rạn san hô trên Biển Đông. Ông Nhậm Quốc Cường khoe khoang: “Chi nhánh Hải Nam của Bệnh viện Đa khoa PLA mà bạn vừa đề cập đã bắt đầu sử dụng công nghệ 5G cùng với chẩn đoán siêu âm. Họ đã có một số chương trình thí điểm và đạt được kết quả ban đầu. Trong tương lai, chúng tôi sẽ đầu tư nhiều hơn vào mạng thông minh và tận dụng công nghệ tốt hơn, tiên tiến hơn để phục vụ binh lính và người dân”. Ông Nhậm còn ngang nhiên cho rằng với sự phát triển của công nghệ thông tin và công nghệ y tế, việc áp dụng công nghệ từ xa ngày càng trở thành một trọng tâm quan trọng của sự phát triển dịch vụ y tế. Trong những năm gần đây, hệ thống y tế và y tế quân sự luôn đặt mục tiêu “tất cả phục vụ cho các sĩ quan và tất cả vì mục đích chiến đấu”.
Trên thực tế, tất cả lập luận, chứng cứ của Trung Quốc đưa ra đều không có tính thuyết phục, đi ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế hiện hành. Thậm chí Trung Quốc còn tìm mọi cách để ngụy tạo chứng cứ pháp lý nhằm khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao Trung Quốc thường nói họ có đầy đủ chứng cứ để chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và “làm chủ” Biển Đông từ cách đây hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, trên thực tế họ không đưa ra được một bằng chứng xác thực nào mà chỉ dựa vào những trích dẫn từ các sách cổ của các tác giả Trung Quốc rồi giải thích một cách tùy tiện theo ý mình rằng đó là bằng chứng về việc họ phát hiện và khai thác hai quần đảo này. Với cách thức tập hợp rất nhiều đoạn trích dẫn có dụng ý chủ quan, cắt xén, lắp ghép tùy tiện là cách Trung Quốc tung hỏa mù để đánh lừa cộng đồng quốc tế về “chủ quyền” ở Biển Đông. Không những vậy, Trung Quốc luôn tìm mọi cách để tuyên truyền, củng cố, ngụy tạo chứng cứ pháp lý để tìm cách khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông. Lập luận pháp lý mà Trung Quốc đưa ra chủ yếu dựa trên một số khía cạnh như: Trung Quốc có “chủ quyền” lịch sử ở Biển Đông; Khu vực này thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, được xác định từ phần lãnh thổ Trung Quốc có “chủ quyền”; Ngư dân Trung Quốc phát hiện sớm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Hiệp ước Pháp – Thanh (26/6/1887) về phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc kỳ khẳng định “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông…
Thứ nhất, luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ thừa nhận hình thức thụ đắc sơ khởi đầu tiên thông qua việc phát hiện và chiếm hữu tượng trưng. Vì thế, Trung Quốc đã đưa những tư liệu lịch sử của mình vào việc chứng minh chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, với rất nhiều tên gọi không thống nhất và không hề giống với tên gọi được sử dụng hiện nay cho hai quần đảo này, với các lập luận rất khó kiểm chứng, tính chân thực trong các tài liệu lịch sử này của Trung Quốc rất khó thuyết phục được cộng đồng quốc tế. Hơn nữa, trong luật quốc tế, mọi hành động mang danh nghĩa cá nhân đều không tạo ra cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và cũng không làm thay đổi bản chất của chủ quyền, ngay cả khi các cá nhân đó hợp thành một tập thể hoặc công ty, trừ trường hợp cá nhân, tập thể hoặc công ty đó được Nhà nước ủy quyền xác lập chủ quyền lãnh thổ thay mặt cho Nhà nước. Vì vậy, việc Trung Quốc viện dẫn ngư dân phát hiện sớm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như một cơ sở pháp lý về chủ quyền là không phù hợp với luật quốc tế.
Để ngụy tạo chứng cứ, Trung Quốc đã sử dụng rất nhiều thủ đoạn tinh vi mà ít ai nghĩ đến. Báo The Straits Times từng phỏng vấn ngư dân Trung Quốc ở làng chài Đàm Môn (tỉnh Hải Nam, Trung Quốc) cho biết, Chính phủ Trung Quốc đã chi trả 180.000 nhân dân tệ (27.000 USD) cho các chủ tàu cá (Trung Quốc) để đi đến quần đảo Trường Sa và rằng “họ (Chính phủ Trung Quốc) không quan tâm đến việc ngư dân có đánh bắt hay không, họ chỉ muốn ngư dân có mặt ở đó”. Trước đây cũng có thông tin cho rằng Trung Quốc đã cho rất nhiều ngư dân mang cổ vật (bát, đồ sứ…) mang đổ xuống Biển Đông nhằm ngụy tạo chứng cứ cho rằng ngư dân Trung Quốc đã xuất hiện ở Biển Đông từ nhiều thế kỷ trước.
Thứ hai, việc Trung Quốc viện dẫn Hiệp ước Pháp – Thanh (26/6/1887) về phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc kỳ (Theo lập luận của nhà Thanh, do Hiệp ước Pháp – Thanh có điều khoản quy định rằng “các hòn đảo nằm ở phía Đông của đường kinh tuyến Paris 15 độ 43’ kinh tuyến Đông, theo hướng đường Bắc Nam đi qua điểm cực Đông của Trà Cổ sẽ thuộc về Trung Quốc, trong khi đảo Cô Tô và tất cả đảo khác nằm phía Tây kinh tuyến đã chỉ định sẽ thuộc về An Nam”) để tuyên bố chủ quyền là không có giá trị áp dụng cho phân chia đảo tại khu vực Biển Đông, vì: Hiệp ước Pháp – Thanh chỉ được ký kết để phân định
biên giới trên bộ. Nội dung điều khoản về phân chia đảo chỉ được áp dụng cho khu vực gần biên giới, và cùng lắm thì cho Bắc kỳ. Trong khi đó, Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp sáp nhập vào Nam kỳ. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Trung Quốc lại viện dẫn Điều 2(f) của Hiệp định Sanfransisco để khẳng định việc từ bỏ chủ quyền của Nhật tại Hoàng Sa và Trường Sa là nhằm trao lại chủ quyền cho Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, Điều 2(f) chỉ đề cập đến việc Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, chủ quyền và yêu sách đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không nói rõ ràng chủ quyền này thuộc về nước nào. Đặc biệt, với tư cách là một nước thuộc phe phát xít, đã sử dụng vũ lực một cách bất hợp pháp để chiếm đóng các vùng lãnh thổ, thì sự chiếm đóng của Nhật Bản không thể xác lập được bất kỳ chủ quyền hợp pháp nào và càng không thể chuyển giao cho nước nào thứ chủ quyền mà Nhật Bản không có.
Thứ ba, việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng tại Hoàng Sa vào năm 1974 và năm 1988. Lập luận cho các cuộc tấn công chiếm đóng này, Trung Quốc cho rằng mình đã dựa trên cơ sở của luật quốc tế, bởi Việt Nam đã sử dụng vũ lực trước, Trung Quốc chỉ tự vệ và do Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc mà Việt Nam đã xâm chiếm, nên Trung Quốc cần thu hồi lại. Thực chất vào thời điểm năm 1974 và 1988, luật quốc tế đã cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việc sử dụng vũ lực chỉ được cho phép trong trường hợp ngoại lệ khi có sự cho phép của Liên hiệp quốc theo Điều 42 hoặc tự vệ khi bị xâm lược theo Điều 51 của Hiến chương. Trên thực tế, do thiếu vắng sự cho phép của Liên hiệp quốc và cơ sở pháp lý hợp pháp cho hành vi tự vệ, hành động sử dụng vũ lực của Trung Quốc vào năm 1974 và 1988 là hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy phạm bắt buộc jus cogen của luật quốc tế.
Thứ tư, về yêu sách vùng biển theo “đường 9 đoạn”, Trung Quốc cho rằng vùng biển có thể là vùng nước lịch sử hoặc vùng nước mà Trung Quốc có quyền lịch sử. Cho dù hiểu theo cách giải thích nào thì “đường 9 đoạn” đã ra đời từ trước khi các luật lệ quốc tế về biển ra đời, nên Trung Quốc cho rằng yêu sách “đường 9 đoạn” không bị ràng buộc hoặc điều chỉnh bởi các điều khoản của những luật lệ đó. Giá trị pháp lý của “đường 9 đoạn” phải được xem xét dưới góc độ của luật pháp quốc tế đương đại (tức là luật pháp quốc tế vào thời điểm mà đường này được vẽ ra), chứ không thể áp dụng Công ước Luật biển 1982. Nhưng trên thực tế, vào thời điểm công bố bản đồ, Trung Quốc chưa từng đưa ra sự giải thích chính thức nào về ý nghĩa pháp lý hay yêu sách của đường này, các bản đồ này chỉ có nguồn gốc từ công trình của một cá nhân, do một cá nhân vẽ ra, không có sự ủy quyền từ Nhà nước, không có sự giải thích chính thức từ Nhà nước, thì quá trình sử dụng đó chẳng thể tạo ra một danh nghĩa lịch sử hay pháp lý nào cho yêu sách sau này của Trung Quốc.
Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông, Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (12/7/2016) đã ra phán quyết kết luận: Nếu Trung Quốc đã từng có quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này đã bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với quy chế Vùng đặc quyền kinh tế theo quy định của UNCLOS 1982. Tòa cũng nhận thấy, dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân Trung Quốc và ngư dân các nước khác đã sử dụng các đảo ở Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã độc quyền kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Chính vì vậy, không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”.
Ngoài ra, trong quá khứ, Trung Quốc đã hai lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã xâm chiếm nhóm đảo phía Đông của Hoàng Sa. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc thực sự chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã phản đối mạnh mẽ sự chiếm đóng này. Năm 1959, một nhóm binh lính Trung Quốc giả dạng ngư dân âm mưu đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa đã bị lực lượng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đập tan. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh ở Việt Nam, Trung Quốc đã tấn công và chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14/3/1988, Trung Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Chủ trương, chính sách và hoạt động của Mỹ
ở Biển Đông trong 6 tháng đầu năm 2019
Trong 6 tháng đầu năm 2019, Mỹ đã tích cực tiến hành các hoạt động tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông, lên án các hoạt đông phi pháp của Trung Quốc và tăng cường phối hợp với các nước trong khu vực, nhất là Việt Nam nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Mỹ đưa ra nhiều tuyên bố chỉ trích Trung Quốc
6 tháng đầu năm 2019, giới chức quốc phòng Mỹ liên tục đưa ra các tuyên bố chỉ trích, lên án hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời cam kết Washington sẽ tiếp tục hiện diện trong khu vực nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không không bị cản trở.
Phát biểu tại Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ – Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Philip Davidson (12/2) cho biết, chương trình quân sự hóa trái phép của Trung Quốc ở Biển Đông là nguyên nhân khiến Mỹ tính tới phương án xây dựng loạt căn cứ quân sự gần khu vực này; nhấn mạnh Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã không giữ lời hứa từng đưa ra hồi năm 2015 với cựu Tổng thống Barack Obama về việc không tiến hành quân sự hóa ở Biển Đông; đồng thời cho biết Mỹ đang trao đổi với một số đối tác và đồng minh về việc thiết lập căn cứ quân sự mới gần Biển Đông.
Trong khi đó, tại buổi điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, Đô đốc Philip Davidson cho rằng hành vi mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc là mối đe dọa to lớn và lâu dài trong việc duy trì tự do thương mại và tự do di chuyển trong khu vực. Đô đốc Philip Davidson nhấn mạnh “bằng đe dọa và cưỡng ép, Bắc Kinh đang nỗ lực mở rộng tư tưởng của mình để bẻ cong, phá vỡ và thay thế trật tự quốc tế dựa trên pháp luật hiện có. Với vị thế của mình, Bắc Kinh tìm cách tạo ra một trật tự mới, trật tự với ‘bản sắc Trung Quốc’, do Trung Quốc lãnh đạo, thay thế cho sự ổn định và hòa bình ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đã tồn tại hơn 70 năm qua”. Đô đốc Philip Davidson nêu lên minh chứng rõ ràng nhất của việc Trung Quốc mở rộng tầm ảnh hưởng là quốc gia này sử dụng các đảo ở Biển Đông để biện minh cho các yêu sách mở rộng lãnh thổ; đồng thời Đô đốc Philip Davidson khẳng định luật pháp quốc tế không công nhận những động thái đó của Trung Quốc và hoạt động tự do hàng hải (FONOP) là phương cách để Trung Quốc nhận biết cộng đồng quốc tế không chấp nhận những tuyên bố liên quan của Bắc Kinh.
Phát biểu tại hội nghị năng lượng CERAWeek diễn ra ở Houston, Texas, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo (12/3) đã chỉ trích Trung Quốc vì “ngăn chặn sự phát triển năng lượng ở Biển Đông thông qua các biện pháp cưỡng ép”; cho rằng hoạt động xây dựng đảo trái phép của Trung Quốc trên Biển Đông đã ảnh hưởng tới các nước ASEAN trong việc tiếp cận nguồn năng lượng này; khẳng định hành động này của Trung Quốc sẽ ngăn cản các nước ASEAN tiếp cận nguồn năng lượng có thể khai thác được tại Biển Đông có trị giá lên tới hơn 2.500 tỷ USD; đồng thời chỉ trích “hành động bồi đắp đảo trái phép của Trung Quốc tại vùng biển quốc tế”, nhấn mạnh rằng “đây không đơn giản là vấn đề về mặt an ninh”; cho rằng đối ngược với Bắc Kinh, chính phủ Mỹ ủng hộ an ninh năng lượng tại các nước Đông Nam Á, khẳng định Mỹ muốn các quốc gia trong khu vực có quyền tiếp cận với nguồn năng lượng mà họ sở hữu. Trước đó, ông Mỹ Mike Pompeo (1/3) khẳng định việc Trung Quốc xây đảo và tiến hành các hoạt động quân sự ở Biển Đông đe dọa chủ quyền, an ninh, kéo theo đó là đời sống kinh tế của Philippines và của Mỹ nữa. Ông Pompeo tuyên bố Mỹ sẽ hậu thuẫn Philippines trong trường hợp xảy ra tấn công vũ trang đối với tàu hoặc máy bay của Philippines ở Biển Đông bởi cuộc tấn công như vậy nằm trong phạm vi nghĩa vụ phòng thủ lẫn nhau theo Điều 4 Hiệp ước Phòng thủ giữa hai nước. Đây là lần đầu tiên một quan chức Mỹ công khai khẳng định cam kết bảo vệ lãnh thổ Philippines ở Biển Đông., Ngoại trưởng Pompeo còn cho biết, Mỹ không chỉ hỗ trợ Philippines trong vấn đề này mà cả các nước khác trong khu vực nữa, có như vậy thì các tuyến hàng hải quan trọng ở đây mới luôn được
thông thoáng và Trung Quốc không đe dọa đóng chặn các tuyến đường này. Đáng chú ý, trong cuộc gặp với Tổng thống Philippines Duterte, Ngoại trưởng Pompeo bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc đang sử dụng sức mạnh của mình theo nhiều cách nhằm ngăn cản tự do hàng hải ở khu vực, đồng thời cho biết Washington có chiến lược an ninh quốc gia để đối phó với vấn đề này.
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ John Bolton (10/3) tố cáo Trung Quốc muốn “lập tỉnh mới” ở Biển Đông và khẳng định Mỹ sẽ ngăn chặn Bắc Kinh lộng hành trên Biển Đông. Ông John Bolton cũng chỉ trích Trung Quốc đi ngược lại với mọi cam kết do họ (Trung Quốc) đưa ra trước đây về việc tiến hành đàm phán hòa bình để giải quyết tuyên bố chủ quyền, họ đang chiếm giữ các đá, bãi cạn và đảo, đồng thời xây dựng các căn cứ quân sự trên đó (Biển Đông); tố cáo Trung Quốc đang “toan tính tạo lập tỉnh mới” thông qua việc xây dựng đảo ở Biển Đông. Theo ông John Bolton, Trung Quốc “đang chiếm giữ các bãi đá, bãi cạn và đảo ở Biển Đông và xây dựng các căn cứ quân sự trên đó. Ông John Bolton cũng cho biết thêm, Mỹ “tiếp tục thực hiện các cuộc diễn tập tự do hàng hải và xem xét những cách khác để ngăn chặn có hiệu quả nỗ lực tạo ra một tỉnh mới của Trung Quốc.
Trợ lý Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Joseph Felter (5/4) cho biết, sự hiện diện của một số lượng lớn các tàu Trung Quốc gần các đảo đang do Philippines quản lý (phi pháp) tại Biển Đông là mối quan ngại đối với Mỹ. Ông Felter cũng cho biết thêm, “Mỹ quan ngại về các hành động hiếu chiến của bất kỳ nước nào trên Biển Đông và trong trường hợp này là Trung Quốc. Các hành động của Bắc Kinh tỏ ra hung hăng, khiêu khích, chúng tôi thấy rằng đó là vô ích và không chính đáng”.
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Joseph Dunford (29/5) cho rằng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng cam kết về việc không quân sự hóa Biển Đông, nhưng những hành động của nước này lại đi ngược với tuyên bố trên; đồng thời nhấn mạnh Trung Quốc cần phải chịu trách nhiệm với hành động vi phạm trong tương lai.
Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La, quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan (1/6) chỉ trích hành động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời cáo buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho hàng loạt hoạt động gây bất ổn tại châu Á. Theo ông Patrick Shanahan, việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông với đường băng dài và tên lửa đất đối không là “quá đáng” và “quá mức cần thiết”; nhấn mạnh có lẽ mối đe dọa lâu dài nghiêm trọng nhất đối với lợi ích sống còn của các quốc gia trong khu vực đến từ các nhân vật tìm cách phá hoại, thay vì tuân thủ, trật tự quốc tế dựa trên luật lệ; nhận định nếu xu thế ứng xử hiện nay của một số nước vẫn tiếp tục, “các thực thể nhân tạo trên vùng (biển) quốc tế sẽ trở thành trạm thu phí” và “chủ quyền quốc gia sẽ nằm trong sự kiểm soát của kẻ mạnh”.Cũng theo quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan, cách hành xử làm xói mòn chủ quyền các quốc gia và reo rắc sự mất lòng tin của Trung Quốc phải chấm dứt.
Liên tục ra Báo cáo chỉ trích Trung Quốc
Bộ Quốc phòng Mỹ mới đây công bố Báo cáo “Những diễn biến về an ninh và quân sự liên quan tới Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 2019”, trong đó tiết lộ nhiều thông tin quan trọng liên quan hoạt động quân sự của Trung Quốc. Tài liệu cho rằng, mục đích của Bắc Kinh là hiện đại hoá quân đội đến năm 2035 và trở thành một trong những lực lượng hàng đầu thế giới vào năm 2049. Ngoài ra, Báo cáo còn cho biết Bắc Kinh đang lên kế hoạch cho những tình huống bất ngờ ở eo biển Đài Loan nhằm răn đe và nếu cần thiết sẽ ép hòn đảo này phải từ bỏ những động thái đòi độc lập. Theo báo cáo, PLA nhiều khả năng cũng đang chuẩn bị cho kịch bản hợp nhất Đài Loan vào đại lục bằng vũ lực, đồng thời ngăn chặn bất kỳ sự can thiệp nào của bên thứ ba. Theo đó, với sự chuẩn bị công khai trên danh nghĩa huấn luyện thường kỳ, Trung Quốc có thể phát động tấn công vào các đảo Đài Loan kiểm soát ở Biển Đông và một số đảo gần hơn.
Giới chức Mỹ đang xem xét đề xuất lại Dự thảo “Đạo luật Trừng phạt Biển Đông và Hoa Đông” nhằm cho phép trừng phạt các cá nhân hoặc tổ chức Trung Quốc có liên quan tới các hoạt động bị Mỹ coi là “bất hợp pháp và nguy hiểm” của Bắc Kinh trên Biển Đông và Hoa Đông. Nếu được thông qua, “Đạo luật Trừng phạt Biển Đông và Hoa Đông” sẽ cho phép chính phủ Mỹ tịch thu các tài sản tài chính tại Mỹ, thu hồi hoặc hủy bỏ thị thực Mỹ đối với bất kỳ đối tượng nào bị cáo buộc có liên quan tới “các hoạt động hay chính sách đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định” trên Biển Đông. Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio và Thượng
nghị sĩ Dân chủ Benjamin Cardin cho biết, Dự thảo luật của lưỡng đảng đã củng cố thêm nỗ lực của Mỹ và các đồng minh trong việc đối phó với hoạt động quân sự hóa trái phép và nguy hiểm của Trung Quốc tại các khu vực tranh chấp mà nước này đang chiếm đóng trên Biển Đông. Dự thảo luật này tái khẳng định cam kết của Mỹ trong việc duy trì khu vực (Biển Đông và Hoa Đông) cởi mở và tự do đối với tất cả các nước, đồng thời buộc chính phủ Trung Quốc phải chịu trách nhiệm vì hành vi gây hấn và cưỡng ép trong khu vực. Dự luật mới cũng yêu cầu Ngoại trưởng Mỹ phải trình lên Quốc hội bản báo cáo theo thời hạn 6 tháng một lần để xác định những cá nhân hay công ty Trung Quốc có liên quan tới hoạt động xây dựng hay phát triển các dự án trái phép trên Biển Đông. Các hoạt động trái phép được quy định theo dự luật của Mỹ gồm bồi đắp, xây đảo nhân tạo, xây dựng hải đăng và hạ tầng viễn thông di động.
Bộ Quốc phòng Mỹ (6/2019) công bố Báo cáo về sức mạnh quân sự của Trung Quốc, trong đó nhận định lực lượng dân quân biển Hải Nam là lực lượng chuyên nghiệp nhất của Trung Quốc, được nhận trợ cấp rộng rãi nhằm hưởng ứng thực hiện các hoạt động tại vùng Quần đảo Trường Sa.Theo báo cáo trên, Chính quyền tỉnh Hải Nam, Trung Quốc vào cuối năm 2016 có chỉ thị đóng 84 tàu cá dân quân cỡ lớn với mạn tàu được gia cố chịu lực và có trang bị vũ khí. Lực lượng dân quân vũ trang Hải Nam được tuyển dụng từ các cựu chiến binh và được trả lương độc lập ngoài việc đánh cá. Đây được cho là phù hợp với chính sách Phát triển Quân đội và An ninh 2019 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Báo cáo cho rằng lực lượng dân quân vũ trang Hải Nam đóng vai trò quan trọng trong một số chiến dịch quân sự và cưỡng chế trên biển từ phía Trung Quốc trong những năm qua, bao gồm vụ cản trở tàu USNS Impeccable của Mỹ tại Biển Đông vào năm 2009, vụ căng thẳng ở bãi Scarborough giữa Philippines và Trung Quốc năm 2012, vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 và vụ đột kích ở vùng nước gần quần đảo Senkaku năm 2016. Ngoài ra, theo báo cáo từ Lầu Năm Góc, một số lượng lớn các tàu dân quân biển Trung Quốc đã được huấn luyện và hỗ trợ bởi lực lược hải quân Trung Quốc và cảnh sát biển trong các hoạt động như thực hiện tuyên bố chủ quyền phi lý ở Biển Đông, do thám, trinh sát, bảo vệ ngư trường, hỗ trợ hậu cần. Các tàu này về mặt hình thức là thường thực hiện các nhiệm vụ thương mại dân sự, tuy nhiên, chúng được cho là cũng âm thầm thực hiện các nhiệm vụ “chính thức” được giao phó. Mỹ cũng chỉ ra rằng trong một số vụ việc liên quan tới Mỹ và các bên còn lại trong tranh chấp ở Biển Đông, các tàu cá Trung Quốc đã thực hiện các hành vi như đâm va, ngăn chặn tàu nước ngoài tiếp cận các đầm phá, thậm chí tham gia vào hoạt động chiếm đóng các bãi san hô và bãi cạn.
Mỹ tích cực tiến hành các hoạt động tuần tra, tập trận ở Biển Đông
Nửa đầu năm 2019, Mỹ đã 3 lần tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông nhằm thách thức các yêu sách “chủ quyền” phi pháp của Trung Quốc, cụ thể: (1) Hải quân Mỹ (7/1) đã cử tàu khu trục trang bị tên lửa hành trình lớp Arleigh Burke USS McCampell tuần tra đảm bảo tự do hàng hải (FONOPS) trong khu vực 12 hải lý quanh đảo Cây, Lincoln và Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Người phát ngôn Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Rachel McMarr cho biết, hoạt động tuần tra trên nhằm thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Bắc Kinh và “bảo vệ quyền tiếp cận những tuyến đường hàng hải trong khuôn khổ luật pháp quốc tế”; nhấn mạnh “các lực lượng của Mỹ sẽ hoạt động trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương một cách thường xuyên, trong đó có Biển Đông và mọi chiến dịch đều được thực hiện đúng với luật pháp quốc tế, nhằm thể hiện quyết tâm của Mỹ hoạt động tại bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. (2) Mỹ (11/2) đã cử hai tầu khu trục hạm có gắn tên lửa hành trình USS Spruance và USS Preble tuần tra vùng 12 hải lý bãi đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hiện đang bị Trung Quốc chiếm giữ, bồi đắp phi pháp thành đảo nhân tạo. Ngôn phát ngôn Hạm đội 7 Mỹ Trung tá Clay Doss cho biết, hoạt động của hai tàu khu trục trên tuân thủ luật pháp quốc tế nhằm đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và thách thức những tuyên bố quá đáng về chủ quyền trên biển của Trung Quốc; nhấn mạnh “tất cả các hoạt động này đều tuân thủ luật pháp quốc tế”. (3) Mỹ và Anh (18/2) tiếp tục điều tàu chiến tiến hành huấn luyện an ninh hàng hải và hậu cần ở Biển Đông nhằm khẳng định quyết tâm đảm bảo tự do hàng hải và quyền đi lại trong khu vực. Hải quân Mỹ đã triển khai tàu chở dầu tiếp liệu USNS Guadalupe trong khi Hải quân Hoàng gia Anh triển khai tàu hộ vệ HMS Montrose tham gia cuộc tập trận hậu cần và an ninh hàng hải trên Biển
Đông. Trong cuộc tập trận trên, các binh sĩ Anh và Mỹ đã diễn tập kịch bản mô phỏng hoạt động lên tàu, khám xét và bắt giữ với sự tham gia của tàu Montrose và tàu Guadalupe. Đây là đợt hợp tác huấn luyện lần thứ ba giữa Hải quân Mỹ và Hải quân Hoàng gia Anh trong vài tháng gần đây. (4) Nhóm tác chiến tàu sân bay USS John C. Stennis (CVN-74) vừa tiến hành các hoạt động an ninh trên Biển Đông. Hiện nhóm tàu sân bay Mỹ đã trở về căn cứ tại Nhật Bản. (5) Tàu chỉ huy USS Blue Ridge của Mỹ (13/3) đã đi qua Biển Đông và ghé thăm cảng ở ngoài khơi thủ đô Manila, Philippines nhằm khẳng định mối quan hệ đồng minh thân cận giữa Mỹ và Philippines. Hạm trưởng Eric Anduze, chỉ huy tàu USS Blue Ridge cho biết, chuyến thăm lần này của tàu chỉ huy hiện đại nhất Hải quân Mỹ tới vịnh Manila là động thái khẳng định liên minh vững chắc giữa Mỹ và Philippines; đồng thời tái khẳng định cam kết của Mỹ trong việc triển khai tàu và máy bay hoạt động tại “bất kỳ nơi nào luật quốc tế cho phép”. Đây là động thái mới nhất của Mỹ nhằm khẳng định quan hệ đồng minh với Philippines và cam kết sẽ bảo vệ Manila trước các cuộc tấn công từ Bắc Kinh. (6) Mỹ và Philippines (1-12/4) đã tiến hanh tập trận thường niên quy mô lớn “Vai kề vai” (Balikatan), trong đó có cuộc tập trận hải quân ngoài khơi bờ biển đảo Luzon đối diện với khu vực Biển Đông. Theo đó, khoảng 8.000 quân tham gia cuộc tập trận trên. Trong đó có 4.000 binh sĩ Philippines, 3.500 lính Mỹ cùng với 50 lính Australia và quan sát viên từ 7 quốc gia khác. Giới chuyên gia nhận định, cuộc tập trận thường niên này nhằm chuẩn bị cho binh sĩ trước các cuộc khủng hoảng ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, tập trung vào an ninh biển – một mối lo ngại đang tăng lên khi Trung Quốc đang cố gắng chiếm quyền thống trị trên các tuyến đường thủy chiến lược. Đây cũng là lần đầu tiên tàu USS Wasp và các máy bay chiến đấu F-35B của Thủy quân lục chiến Mỹ tham gia vào cuộc tập trận Balikatan. (7) Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ (6/5) đã điều hai tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường USS Preble và USS Chung Hoon tuần tra tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý quanh Đá Gaven và Đá Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhằm “thách thức các tuyên bố hàng hải quá mức” và “bảo vệ quyền tiếp cận các tuyến đường thủy theo luật pháp quốc tế”. (8) Hải quân Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines (2/5 – 8/5) đã tiến hành tập trận ở Biển Đông. Theo đó, tham gia cuộc tập trận có tàu khu trục hạm trang bị tên lửa dẫn đường USS William P. Lawrence của Mỹ, tàu sân bay trực thăng JS Izumo và tàu khu trục JS Murasame của Nhật Bản, tàu khu trục INS Kolkata và tàu tiếp liệu INS Shakti của Ấn Độ và tàu tuần tra BRP Andres Bonifacio của Philippines. Trong cuộc tập trận, hải quân 4 nước đã thực hiện nhiều bài tập lập đội hình, liên lạc, vận chuyển binh lính, trao đổi giữa các sĩ quan lãnh đạo. Đây là lần đầu bốn nước nói trên cùng tham gia tập trận tại Biển Đông. (9) Lực lượng tuần duyên của Mỹ và Philippines (15/5) tiến hành cuộc tập trận chung tại vùng biển gần bãi cạn Scarborough, phía Tây đảo Luzon. Đây là cuộc tập trận chung đầu tiên giữa Mỹ và Philippines ở gần bãi cạn này. Các quan chức Philippines cho biết, 3 tàu, gồm tàu tuần duyên Bertholf của lực lượng tuần duyên Mỹ và tàu tìm kiếm cứu hộ của lực lượng tuần duyên Philippines, đã tham gia cuộc tập trận mô phỏng chiến dịch tìm kiếm và cứu hộ sau khi một tàu chở khách bị chìm. (10) Hải quân Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Australia (16/5) lần đầu tổ chức tập trận hải quân chung trên các vùng biển châu Á. Tham gia tập trận có tàu sân bay FS Charles de Gaulle của Pháp cùng các tàu hộ tống và 5 tàu hải quân khác, trong đó có một tàu sân bay trực thăng của Nhật Bản, một tàu khu trục tên lửa dẫn đường của Mỹ và một tàu ngầm của Australia. Theo thông báo từ Hạm đội 7 của Mỹ, trong đợt tập trận này, các tàu cùng thực hiện các khoa mục huấn luyện chung như triển khai đội hình, bắn đạn thật, tìm kiếm và cứu hộ. Đây là một phần trong kế hoạch của Mỹ và Nhật Bản nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng với các quốc gia khác trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương và xa hơn, gồm Anh và Pháp, nhằm tạo thế cân bằng chiến lược trong khu vực. (11) Quân đội Mỹ (19/5) đã điều tàu chiến đi qua trong khu vực 12 hải lý quanh bãi cạn Scarborought/Hoàng Nham nhằm thách thức yêu sách “chủ quyền” trái phép của Trung Quốc đối với vùng biển này. Đây là lần thứ hai Mỹ có các hoạt động quân sự ở Biển Đông trong tháng này.
Mỹ nhiều lần điều tàu chiến qua eo biển Đài Loan nhằm thể hiện cam kết sẽ bảo vệ Đài Bắc
Hải quân Mỹ (24/1) đã điều 2 tàu chiến đi qua eo biển Đài Loan. Đây là lần đầu tiên hải quân Mỹ thực hiện một chuyến tuần tra qua eo biển Đài Loan trong năm nay. Theo Reuters, hành động này cho thấy chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump hỗ trợ Đài Loan trong bối cảnh quan hệ giữa hòn đảo tự trị này với Trung Quốc đang gia tăng căng thẳng.
Hải quân Mỹ (28/4) tiếp tục điều 2 tàu khu trục đi qua eo biển Đài Loan nhằm thể hiện cam kết của Mỹ đối với Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở. Người phát ngôn Hạm đội 7 của quân đội Mỹ Clay Doss cho biết, Mỹ đã điều 2 tàu khu trục William P. Lawrence và Stethem đi qua eo biển Đài Loan nhằm thể hiện cam kết của Mỹ đối với Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở, đồng thời xác nhận không có tương tác không an toàn hoặc không chuyên nghiệp đối với các tàu của quốc gia khác trong quá trình di chuyển. Đây là lần thứ 2 Mỹ điều tàu chiến qua eo biển Đài Loan trong năm 2019. Trước đó, Hải quân Mỹ (24/1) lần đầu tiên trong năm đã điều 2 tàu chiến đi qua eo biển Đài Loan. Hoạt động qua eo biển Đài Loan của các tàu này diễn ra không lâu sau khi Mỹ từ chối gửi tàu quân sự tới tham gia thao diễn hải quân kỷ niệm thành lập 70 năm Hải quân Trung Quốc tuần trước. Theo Reuters, hải trình của 2 tàu khu trục Mỹ có nguy cơ làm gia tăng căng thẳng với Trung Quốc. Thế nhưng, nhiều khả năng động thái này sẽ được Đài Loan coi như một dấu hiệu hỗ trợ từ chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump trong bối cảnh bất hòa ngày càng tăng giữa Đài Bắc và Bắc Kinh.
Mỹ nhiều lần điều máy bay ném bom B-52 tuần tra trong khu vực
Mỹ (13/3) đã điều hai máy bay ném bom chiến thuật B-52 tuần tra trong khu vực Biển Đông. Đây là lần thứ hai trong vòng 10 ngày qua máy bay B-52 di chuyển trên Biển Đông, thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc. Trước đó, Mỹ (4/3) đã điều hai máy bay ném bom B-52 Stratofortress cất cánh từ căn cứ không quân Andersen, Guam để tham gia các hoạt động huấn luyện thường kỳ gần Biển Đông.
Thông tin cho biết, giống như các hoạt động tự do hàng hải của Hải quân Mỹ ở Biển Đông, các hoạt động của Không quân Mỹ cũng nhằm khẳng định khu vực này là không phận quốc tế và phản đối việc Trung Quốc đơn phương áp đặt Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở Biển Hoa Đông. Không quân Mỹ nhấn mạnh, các hoạt động của máy bay B-52 hoàn toàn tuân thủ luật pháp quốc tế và khẳng định đây là một phần trong sứ mệnh “hiện diện thường trực” của Mỹ ở Biển Đông; đồng thời khẳng định máy bay quân sự chỉ tiến hành hoạt động huấn luyện thường kỳ nhằm hỗ trợ các đồng minh, duy trì khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở.
Mỹ tăng cường hợp tác với Việt Nam
Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương W. Patrick Murphy (22/3) tuyên bố Washington sẽ tiếp tục hỗ trợ nâng cao năng lực hàng hải cho Việt Nam, cho rằng việc này có vai trò quan trọng cho an ninh khu vực. Theo Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương W. Patrick Murphy, Việt Nam hiện có một tàu cảnh sát biển do Mỹ cung cấp. Mỹ sẽ tăng cường nỗ lực để nâng cao năng lực hàng hải của Việt Nam. Điều đó rất quan trọng với Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung. Họ có thể đóng góp nhiều cho khu vực. Ngoài ra, ông W. Patrick Murphy cũng cho biết, Mỹ mong muốn “được làm việc chặt chẽ với Việt Nam về quan hệ song phương và các vấn đề khu vực”; đồng thời khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông, nhấn mạnh tất cả quốc gia trên thế giới đều có lợi ích khi giao thông và thương mại ở các tuyến đường biển không bị cản trở.
Thứ trưởng phụ trách Kiểm soát vũ khí và An ninh quốc tế Mỹ Andrea Thompson (25/3) cho biết, Mỹ tiếp tục coi trọng vai trò của Việt Nam và cam kết mạnh mẽ nhằm bảo đảm khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở; ủng hộ hoà bình, ổn định, hợp tác, thương mại không bị cản trở, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không. Mỹ cũng kêu gọi các bên liên quan thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, hướng tới hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) thực chất và hiệu quả.
Phát biểu tại hội thảo quốc tế tổ chức ở Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Thuật và Quốc Tế (CSIS), Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Randall Schriver (3/4) cho biết Việt Nam là “một đối tác quan trọng” và Washington mong muốn liên minh chặt chẽ hơn với Hà Nội. Theo Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Randall Schriver, Việt Nam giới hạn chiến hạm nước ngoại đến thăm mỗi năm một lần do ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chính sách ngoại giao của Việt Nam. Ông cho biết “có thể Mỹ không bao giờ có được một liên minh với Việt Nam, nhưng Việt Nam luôn luôn có cơ hội liên minh với Mỹ khi Việt Nam muốn”. Hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ đã trở nên vững mạnh hơn trong hai năm qua. Hai nước có những kế hoạch dựa trên quyền lợi chung sẽ làm cho sự hợp tác ngày càng mạnh hơn;
đồng thời nhấn mạnh Mỹ đang tìm cách cải thiện quan hệ quốc phòng với Việt Nam. Đáng chú ý, ông Schriver cũng phản đối việc Trung Quốc quân sự hóa những hòn đảo ở Biển Đông, cho rằng hành động này của Bắc Kinh đi ngược lại tuyên bố và cam kết của ông Tập Cận Bình, đồng thời nhận định “toàn vùng ngày càng phải đương đầu với một Trung Quốc xâm lăng và liều lĩnh, sẵn sàng chấp nhận xung đột để theo đuổi quyền lợi của họ”. Cùng quan điểm trên, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear nhận định rằng “đối với Việt Nam và tất cả các thành viên ASEAN, Mỹ đang giúp các nước này bảo vệ chủ quyền quốc gia, giúp họ tăng cường khả năng và quân đội và giúp Việt Nam tự tin để đối phó với Trung Quốc và bảo vệ được quyền lợi quốc gia”.
Trong chuyến thăm Việt Nam, Đô đốc Philip S. Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ (USINDOPACOM) khẳng định sẽ tiếp tục thúc đẩy vai trò lãnh đạo của Việt Nam tại khu vực cũng như trên toàn cầu, đặc biệt là khi Việt Nam đang chuẩn bị để đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN vào năm 2020. Theo Bộ Ngoại giao Mỹ (19/4), trong chuyến công du này, “Đô đốc Davidson và các quan chức Việt Nam đã thảo luận về việc tiếp tục triển khai một cách sâu sắc hơn hoạt động hợp tác an ninh giữa Mỹ và Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, bao gồm giải quyết các vấn đề chiến tranh để lại, tăng cường năng lực của Việt Nam trong hoạt động gìn giữ hòa bình, xây dựng năng lực thực thi pháp luật trên biển, và đảm bảo sự tự do và rộng mở của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Trong khi đó, ông Philip S. Davidson cũng cho biết, hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam dựa trên lợi ích chiến lược chung của hai nước trong việc đảm bảo chủ quyền và độc lập của Việt Nam và thúc đẩy một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ; nhấn mạnh việc Việt Nam làm chủ tịch ASEAN năm 2020 là cơ hội tốt để củng cố chiến lược khu vực của Washington, khẳng định sẽ tiếp tục thúc đẩy vai trò lãnh đạo của Việt Nam tại khu vực cũng như trên toàn cầu, đặc biệt là khi Việt Nam đang chuẩn bị để đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN vào năm 2020. Ngoài ra, ông Philip S. Davidson cũng chỉ trích các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian qua, cho rằng điều này cho thấy ý đồ sâu xa hơn của Bắc Kinh.
Mới đây nhất, Bộ Quốc phòng Mỹ (1/6) thông báo bán 6 máy bay không người lái (UAV) ScanEagle cho Việt Nam nhằm nâng cao năng lực kiểm soát hàng hải.
Phản ứng của Trung Quốc
Trước các hoạt động và tuyên bố của Mỹ về vấn đề Biển Đông, Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố ngang ngược nhằm chỉ trích, lên án và đe dọa hoạt động hợp pháp của Mỹ và các nước đồng minh; ngang ngược cho rằng tàu chiến của Mỹ “tự ý đi vào vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà chưa được phép của Trung Quốc”, cho rằng động thái của tàu chiến Mỹ đã “vi phạm luật pháp quốc tế liên quan…, phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định trật tự của vùng lãnh hải này”, đồng thời lớn tiếng cảnh cáo “Trung Quốc kiên quyết phản đối các hành động liên quan của Mỹ và kêu gọi Mỹ ngừng ngay lập tức các hành động khiêu khích tương tự. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc”; nhấn mạnh Trung Quốc sẽ “tiếp tục thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia và duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”. Trong khi đó, Người phát ngôn Chiến khu Nam Bộ quân đội Trung Quốc (PLA), Đại tá Lý Hoa Mẫn tuyên bố lực lượng quân sự Trung Quốc sẽ được đặt trong “tình trạng báo động cao” và sẽ “áp dụng mọi biện pháp cần thiết” để bảo vệ cái mà Bắc Kinh gọi là “chủ quyền quốc gia”.
Chủ trương, chính sách và hoạt động
của Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia, Canada
về vấn đề Biển Đông trong 6 tháng đầu năm 2019
Từ đầu năm đến nay, một số nước đồng minh của Mỹ tiếp tục phối hợp với Washington, tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực nhằm ngăn chặn và thách thức các yêu sách “chủ quyền” thái quá của Trung Quốc trên Biển Đông.
Anh gia tăng hiện diện quân sự ở Biển Đông
Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Anh phụ trách khu vực châu Á -Thái Bình Dương Mark Field (3/1) cũng đã chia sẻ một số quan điểm của chính phủ Anh về Biển Đông cũng như quan hệ với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng sau khi Anh rời khỏi Liên minh châu Âu. Theo ông Field cho biết chính phủ Anh muốn vùng biển này được đảm bảo hàng hải tự do và rộng mở. Ông nhắc lại việc Anh đã đưa tàu đi qua khu vực trong vài tháng qua, đồng thời khẳng định London muốn chứng kiến luật pháp quốc tế được tuân thủ. Về mối quan hệ với các nước ASEAN, ông Field cho biết Anh là đối tác đối thoại với ASEAN nên sẽ luôn muốn duy trì mối quan hệ chặt chẽ tối đa cũng như nỗ lực vì quan hệ toàn diện sâu rộng với các nước thành viên ASEAN. Ông Field cũng nhấn mạnh Anh luôn chú trọng mối quan hệ với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam sẽ là chủ tịch ASEAN vào năm 2020, thời điểm Anh hoàn tất cả các thảo luận về việc rời EU. Ông bày tỏ hy vọng hai bên sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác song phương trên toàn bộ các lĩnh vực quan trọng như hạ tầng, dược phẩm, y tế và đặc biệt là giáo dục.
Bộ trưởng Quốc phòng Anh Gavin Williamson (11/2) cho biết London sẽ điều tàu sân bay HMS Queen Elizabeth mang theo 2 phi đội máy bay chiến đấu F-35 của Anh và Mỹ tới tuần tra ở Biển Đông nhằm chống lại những bên vi phạm luật pháp quốc tế trong khu vực. Theo đó, ông Williamson nói rằng Anh là nhà đầu tư lớn thứ 2 trong khu vực trên và họ phải thể hiện “quyền lực cứng” để bảo vệ quyền lợi của mình. Đáng chú ý, tờ Navy Recognition dẫn một số nguồn tin cho biết, nhiều khả năng Anh sẽ điều tàu sân bay HMS Queen Elizabeth và một số tàu khu trục Type 45 và tàu hộ vệ Type 26 thế hệ mới để tiến hành các hoạt động ở Biển Đông trong năm 2021.
Bất chấp cảnh bảo và đe dọa từ Trung Quốc, Mỹ và Anh (18/2) tiếp tục điều tàu chiến tiến hành huấn luyện an ninh hàng hải và hậu cần ở Biển Đông nhằm khẳng định quyết tâm đảm bảo tự do hàng hải và quyền đi lại trong khu vực. Theo đó, Hải quân Mỹ đã triển khai tàu chở dầu tiếp liệu USNS Guadalupe trong khi Hải quân Hoàng gia Anh triển khai tàu hộ vệ HMS Montrose tham gia cuộc tập trận hậu cần và an ninh hàng hải trên Biển Đông. Trung tá Conor O’Neill, chỉ huy tàu HMS Montrose, cho biết đây là đợt diễn tập quan trọng để giữ cho cả Hải quân Hoàng gia và Thủy quân lục chiến của Anh luôn trong tư thế sẵn sàng để thi hành bất kỳ nhiệm vụ nào được giao phó. Đáng chú ý, trên trang Twitter chính thức, Hải quân Mỹ (21/2) thông báo cuộc tập trận với Hải quân Anh “được thiết kế nhằm chia sẻ và tăng cường các kỹ năng bảo đảm sự hiện diện an toàn trên Biển Đông”.
Nhật Bản tăng cường phối hợp với các nước đối phó với Trung Quốc
Tại Hội nghị Tham vấn An ninh Mỹ – Nhật Bản (2+2), Nhật Bản và Mỹ đã cam kết tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, an ninh mạng, không gian vũ trụ, đồng thời tuyên bố phản đối các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông và Hoa Đông. Tại Đối thoại, các bộ trưởng cũng phản đối những nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng tại Biển Đông; cam kết tăng cường phối hợp, cả song phương lẫn đa phương, trong việc thúc đẩy khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và mở cửa. Ngoại trưởng Mỹ Pompeo nhấn mạnh Mỹ và Nhật Bản phản đối các hoạt động quân sự hóa và gây mất ổn định ở Biển Đông và biển Hoa Đông; đồng thời hối thúc tất cả các bên tôn trọng đầy đủ tiến trình luật pháp và ngoại giao, theo đuổi giải pháp hòa bình cho các tranh chấp biển mà không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tất cả các bên phải tôn trọng Công ước về Luật Biển.
Tại Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ 7 (3/6) ở Hà Nội, hai bên nhất trí về tầm quan trọng của bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thúc đẩy giải quyết tranh chấp
bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý, thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, có hiệu lực và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trong cuộc gặp giữa Tham mưu trưởng Lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản Tướng Koji Yamazaki và Tham mưu trưởng Quân đội Philippines Macairog S. Alberto (4/3), hai bên đã thảo luận các vấn đề liên quan đến hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông.
Không những vậy, Bộ Quốc phòng Nhật Bản (13/3) công bố kế hoạch đóng mới 12 tàu tuần tra hạng nhẹ cho Lực lượng phòng vệ trên biển (JMSDF) vào năm 2020. Mỗi chiếc dự kiến có lượng giãn nước 1.000 tấn và thủy thủ đoàn 30 người, giúp tăng cường khả năng tuần tra và trinh sát trên biển của nước này. Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho biết, các tàu tuần tra thế hệ mới sẽ đảm đương nhiệm vụ cho đội tàu khu trục cỡ lớn đang được Nhật sử dụng để tuần tra gần nhóm đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư trên Biển Hoa Đông và Biển Đông Ngoài ra, Nhật Bản cũng khởi động chương trình đóng mới 22 khu trục hạm, mỗi chiếc có lượng giãn nước 3.900 tấn và thủy thủ đoàn 100 người, nhằm bảo đảm khả năng tuần tra Biển Hoa Đông trước năm 2032.
Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Nhật Bản (18/4) cho biết, từ ngày 30/4 – 10/7, Nhật Bản sẽ điều tàu khu trục hạm trực thăng JS Izumo và tàu khu trục đa dụng JS Murasame huấn luyện tại Biển Đông và Ấn Độ Dương. Biên đội tàu chiến Nhật dự kiến cập cảng, thăm một số quốc gia Đông Nam Á gồm Việt Nam, Singapore, Philippines và Brunei. Tư lệnh Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) Hiroshi Yamamura cho biết, chuyến huấn luyện này sẽ giúp cải thiện trình độ chiến thuật của binh sĩ, cũng như tăng cường hợp tác giữa hải quân các nước.
Đáng chú ý, Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) và hải quân Canada vừa tiến hành hàng loạt cuộc diễn tập chung ở Biển Đông nhằm nâng cao khả năng phối hợp giữa hai lực lượng. Hải quân Hoàng gia Canada (RCN) và Lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản (JMSDF) đã hoàn thành một loạt cuộc tập trận ở Biển Đông, với mục đích cải thiện khả năng tương tác và làm quen giữa hải quân hai nước. Theo đó, cuộc tập trận “KAEDEX” năm 2019 (13-15/6) là hoạt động trên biển song phương được Nhật Bản và Canada tiến hành từ năm 2017. Các lần lặp lại trước đây của cuộc tập trận đã diễn ra ở và ngoài vùng biển ngoài khơi Sasebo, Nhật Bản. Tuy nhiên, cuộc tập trận lần này được tổ chức tại vùng trời và vùng biển ngoài khơi Việt Nam ở Biển Đông.
Australia chỉ trích các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne (28/1) cho biết các hành động quân sự hóa trái phép của Trung Quốc trên Biển Đông sẽ làm gia tăng sự quan ngại về ý đồ trỗi dậy của Bắc Kinh trong khu vực; cho rằng cách tiếp cận của Trung Quốc đang làm xói mòn lòng tin trong khu vực và gia tăng quan ngại, đồng thời kêu gọi Trung Quốc xem xét lại cách tiếp cận trong vấn đề Biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne cho biết việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế sẽ giúp xây dựng lòng tin rằng Trung Quốc ủng hộ và đề cao văn hóa chiến lược, trong đó tôn trọng quyền của tất cả các quốc gia khác. Theo ông Pyne, những cường quốc càng lớn mạnh càng phải gánh trên vai nhiều trách nhiệm, do vậy Trung Quốc nên hành xử với trách nhiệm lớn tại Biển Đông. Ngoài ra, Bộ trưởng Pyne nhấn mạnh “việc xây dựng và quân sự hóa các thực thể nhân tạo trên Biển Đông không làm gia tăng lòng tin trong khu vực về ý đồ chiến lược của Trung Quốc, thay vào đó càng làm gia tăng sự lo lắng”; cho biết Australia “không có ý định kiềm chế Trung Quốc”, tuy nhiên Australia “quan tâm tới việc can dự và khuyến khích Trung Quốc triển khai sức mạnh theo hướng gia tăng lòng tin và sự tin cậy trong khu vực” và Australia sẵn sàng tiến hành các hoạt động đa phương trên Biển Đông để chứng minh rằng đó là vùng biển quốc tế. Ngoài ra, ông Christopher Pyne cũng cho biết thêm, Australia sẽ đầu tư hơn 90 tỷ đô la Australia vào một đội tàu ngầm, tàu khu trục và các tàu khác để tăng cường khả năng hàng hải, nhấn mạnh Australia hy vọng sẽ tăng ngân sách quốc phòng lên hơn 2% tổng sản phẩm quốc nội vào năm 2021.
Trong chuyến thăm Việt Nam, Ngoại trưởng Australia Marise Payne (12/6) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông cũng như việc giải quyết các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả và toàn diện.
Ngoài ra, Australia được cho là đang thực hiện kế hoạch bí mật xây dựng một cảng nước sâu mới để tiếp nhận lính thủy đánh bộ Mỹ trên bờ biển phía Bắc, nhằm chống lại sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Theo thông tin trên, cảng nước sâu trên nằm ở khu vực Glyde Point, cách cảng hiện tại của thành phố Darwin – thủ phủ của vùng lãnh thổ phía Bắc – khoảng 40km về phía Đông Bắc. Địa điểm này trước đây đã được chính quyền Lãnh thổ Bắc Australia quy hoạch để phát triển cảng công nghiệp do biển ở đây tương đối sâu, song dự án này chưa thực hiện được vì thiếu kinh phí. Giới chuyên gia cho biết cảng mới sẽ là địa điểm lý tưởng để phục vụ hơn 2.000 lính thủy đánh bộ Mỹ cùng các thiết bị của họ trong các đợt luân chuyển thường xuyên qua khu vực.
Canada tiếp tục tuần tra ở Biển Đông
Từ đầu năm 2019, ba tàu hải quân hoàng gia Canada gồm tàu hộ tống HMCS Ottawa, tàu hộ tồng HMCS Regina và tàu tiếp tế MV Asterix (6/2) đã rời cảng Esquimalt ở tỉnh bang British Columbia để tham gia các hoạt động tại châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông.Ba tàu sẽ đến Trân Châu cảng ở Hawaii, sau đó tàu Ottawa tham dự cuộc tập trận chống ngầm với hải quân Mỹ rồi quay về Esquimalt sau khoảng một tháng. Tàu Regina và Asterix sẽ tiếp tục chuyến triển khai kéo dài 7 tháng và tham gia nhiều hoạt động huấn luyện, tập trận, thăm cảng các đối tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Trung Đông. Chuẩn đô đốc Bob Auchterlonie, Tư lệnh hải quân Canada tại Thái Bình Dương cho biết, trong đợt triển khai lần này, tàu Regina sẽ đi qua một số vùng biển đang có tranh chấp bao gồm Biển Đông. Việc Canada điều tàu Regina tuần tra ở Biển Đông chứng tỏ sự quan tâm của Canada tại châu Á-Thái Bình Dương và nước này sẵn sàng ủng hộ các đồng minh, đối tác tại đây.
Đáng chú ý, tại Đối thoại ASEAN – Canada lần thứ 16 (25 – 26/3), Canada đã bày tỏ ủng hộ lập trường nguyên tắc của ASEAN về tầm quan trọng của việc duy trì hoà bình, ổn định, an ninh, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông. Tại cuộc họp, các thành viên ASEAN và Canada chia sẻ đánh giá tích cực về những tiến triển đạt được trong quan hệ ASEAN – Canada, nhất là việc thực hiện “Kế hoạch hành động triển khai Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác tăng cường ASEAN-Canada giai đoạn 2016-2020” và “Tuyên bố chung ASEAN – Canada về Thương mại và đầu tư”. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác đồng đều trên cả 3 trụ cột, tập trung vào các lĩnh vực như chống khủng bố, bạo lực cực đoan và tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng, quản lý biên giới, thương mại – đầu tư, kết nối, phát triển doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (MSMEs), ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu, năng lượng, giáo dục và cấp học bổng, giao lưu nhân dân, lao động di cư. Hai bên cũng nhất trí ủng hộ hệ thống thương mại đa phương quốc tế rộng mở, công bằng, dựa trên luật lệ; tiếp tục thảo luận về khả năng xây dựng FTA ASEAN-Canada. Phát biểu tại cuộc họp, đại diện của Canada đánh giá cao vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN, nhấn mạnh Canada là đối tác tin cậy, lâu đời của ASEAN, luôn coi trọng và mong muốn nâng cấp quan hệ với ASEAN; tiếp tục cam kết hỗ trợ ASEAN đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng; ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực; tiếp tục bày tỏ mong muốn được tham gia sâu hơn vào các cơ chế hợp tác do ASEAN khởi xướng và dẫn dắt, đặc biệt mong muốn sớm được tham gia vào Cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM+). Tuyên bố Canada ủng hộ lập trường nguyên tắc của ASEAN về tầm quan trọng của việc duy trì hoà bình, ổn định, an ninh, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, nhấn mạnh ủng hộ đối thoại và xây dựng lòng tin, kiềm chế, không quân sự hoá, phản đối các hành động đơn phương gây căng thẳng tại Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nghiêm túc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử giữa các Bên ở Biển Đông (DOC) và tích cực xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu lực, hiệu quả.
Pháp thực hiện cam kết tăng cường tuần tra ở Biển Đông
Bất chấp cảnh báo và đe dọa từ Trung Quốc cũng như thách thức từ Philippines, Pháp tiếp tục đưa ra tuyên bố khẳng định sẽ cử tàu chiến tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông. Ngay sau khi Tổng thống Philippines Duterte đưa ra tuyên bố thách thức Mỹ, Anh, Pháp và một số nước đồng minh tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực nhằm đối phó với các mối đe dọa từ Trung Quốc. Quốc vụ khanh Bộ châu Âu và Ngoại giao Pháp Jean-Baptiste Lemoyne (28/6) tuyên bố hải quân nước này sẽ tiếp tục tuần tra ở Biển Đông để đảm bảo tự do hàng hải ở vùng biển này. Theo ông Jean-Baptiste Lemoyne, Pháp quyết thúc đẩy và bảo vệ luật pháp quốc tế. Đó là lý do hải quân của chúng tôi thường tuần tra ở Biển Đông và chúng tôi sẽ tiếp tục hoạt động này; đồng thời nhấn mạnh Pháp là một phần thuộc khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì Paris có 7.000 binh sĩ ở khu vực này và đó là bằng chứng cho cam kết của Pháp đảm bảo tự do hàng hải ở vùng biển này. Trước đó, Pháp (6/4) đã điều tàu hộ vệ Vendemiaire đi qua eo biển Đài Loan nhằm đảm bảo tự do hàng hải trong khu vực. Trong khi đó, giới chuyên gia quân sự nhận định, việc tàu chiến Pháp đi qua eo biển Đài Loan là dấu hiệu cho thấy các đồng minh của Mỹ đang tăng cường thực thi quyền tự do đi lại tại những vùng biển quốc tế gần Trung Quốc.
Đáng chú ý, phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 18, Bộ trưởng Quân Lực Pháp Florence Parly (1/6) đã công bố chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương”, đồng thời khẳng định Pháp sẽ tiếp tục tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông tối thiểu hai lần mỗi năm. Tại Đối thoại, Bộ trưởng Quân Lực Florence Parly công bố chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Pháp với 5 điểm nhấn: Thứ nhất, “bảo vệ quyền lợi về chủ quyền, của các công dân, bảo vệ lãnh thổ và các vùng đặc quyền kinh tế” của nước Pháp. Để hoàn thành những mục tiêu đó Paris đã huy động 7.000 lính đến khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương. Nhiệm vụ của những người lính này rất rõ ràng: “chống khủng bố, các tổ chức tội phạm, và chống lại mọi hành vi thù nghịch nhắm vào chủ quyền quốc gia của nước Pháp”. Thứ hai, trong chiến lược an ninh được bộ trưởng Pháp, Florence Parly đề cập đến là “đóng góp duy trì ổn định khu vực qua việc tăng cường các hoạt động hợp tác an ninh và quân sự. Ấn Độ và Australia là hai đối tác then chốt” của Pháp. Thứ ba, cùng với các đối tác trong vùng, bảo vệ tự do lưu thông hàng hải. Pháp sẽ “tiếp tục tuần tra Biển Đông tối thiểu mỗi năm hai lần”. Bà Parly cũng tuyên bố không chấp nhận việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông và lên án chủ trương “sự đã rồi” của Bắc Kinh là vi phạm luật pháp quốc tế. Tránh nêu đích danh Trung Quốc nhưng bộ trưởng Quân Lực Florence Parly bồi thêm “Pháp không để bất cứ một quốc gia nào uy hiếp”. Bà gián tiếp nhắc đến sự cố hồi tháng 4/2019 khi Trung Quốc đã uy hiếp chiến hạm Vendémiaire của Pháp đi ngang qua eo biển Đài Loan. Thứ tư, liên quan hạt nhân Bắc Triều Tiên, Pháp “ủng hộ những nỗ lực ngoại giao” để đạt được đến mục đích “giải trừ hạt nhân Bắc Triều Tiên một cách không thể đảo ngược” và những cam kết trên hồ sơ này sẽ phải được tôn trọng. Thứ năm, bà Florence Parly cho rằng, phòng chống thiên tai, giải quyết khủng hoảng do biến đổi khí hậu gây nên trong vùng châu Á Thái Bình Dương cũng là một ưu tiên của Pháp.
0 comments