Hải Ngoại Ngày Nay


LIÊN KẾT HẢI NGOẠI YỂM TRỢ QUỐC NỘI ĐẤU TRANH

GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI VIỆT CỘNG

GIẢi TRỪ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG

Điểm sách: Sự thịnh vượng của đất nước – Adam Smith

Saturday, April 3, 2021 6:35:00 PM //

 Đỗ Kim Thêm

1-4-2021

Ảnh bìa sách

Vần đề

Sự thịnh vượng của Việt Nam là một ưu tư của mọi người Việt mà câu trả lời đơn giản và quen thuộc là dân có giàu thì nước mới mạnh. Nhưng để đạt mục tiêu này, việc tái cấu trúc nền kinh tế hiện nay đang có ba khó khăn chính là định hướng xã hội chủ nghĩa, khả năng của chính quyền và sự đồng thuận của toàn dân.

Ngoài ý chí chính trị cần phải triệt để thay đổi thể chế, phương cách vận hành của nền kinh tế thị trường tại các nước phương Tây là chủ đề quan trọng cầm tìm hiểu. Để đóng góp vào việc thảo luận chung cho việc so sánh với thực trạng kinh tế Việt Nam, tiểu luận sau đây sẽ giới thiệu sơ lược tác phẩm An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations của Adam Smith làm một lý thuyết nền tảng.

Tác giả

Adam Smith (1723-1790) học tại các Đại học Glasgow (1737-40) và Oxford (1740-46) và là giáo sư Luận lý và Đạo đức học tại Đại học Glasgow (1751-63). Với hai danh tác The Theory of Moral Sentiments (1759) và An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (1776) ông được hậu thế tôn vinh là người khai sinh khoa học kinh tế.

Tác phẩm

The Wealth of Nations giải thích sự thịnh vượng của đất nước bằng cách xác định mối quan hệ giữa khối lượng hàng hoá cung ứng và mãi lực của người tiêu thụ. Mối quan hệ này có hai yếu tố là năng suất lao động và phân công lao động, mà cụ thể là tỷ lệ giữa những người đang làm việc và thất nghiệp. Yếu tố thứ nhất quan trọng và dễ xác định hơn vì mức tiêu thụ của người thất nghiệp khó kiểm chứng.

Sau khi ra đời, tác phẩm trở thành kinh điển bậc nhất cho khoa học kinh tế. Sách có năm quyển với một bố cục mạch lac.

Bố cục

Quyển một

Smith tìm hiểu nguyên nhân gia tăng năng suất mà phân công lao động và khuynh hướng trao đổi trong xã hội là yếu tố then chốt hơn là năng khiếu cá nhân. Mở rộng thị trường làm cho phân công lao động phát triển hơn, nhưng nếu tiền tệ là dụng cụ trao đối thì sự phân biệt giữa thực giá và giá trao đổi là vấn đề cần làm rõ.

Con người sống trong xã hội lệ thuộc nhau qua phân công lao động và trao đổi hàng hoá. Ai cũng muốn làm những gì mà mình cho là hay nhất, nhưng nỗ lực lại tiết kiệm nhất, chỉ trao đổi khi có lợi nhất để hưởng thành quả cao nhất. Giá trị trao đổi được đặt ra khi hai mặt hàng tương xứng nhau, nhất là khi con người làm chủ phương tiện sản xuất và thỉnh thoảng mới có nhu cầu để trao đổi các mặt hàng đơn giản. Khi xã hội tiên tiến thì trao đổi có phần phức tạp hơn, nên cần đến hai yếu tố khác để xác định.

Thứ nhất vì trong xã hội có giai cấp nên công nhân không nắm tư liệu sản xuất và giá trị hàng hoá do ba yếu tố là lao động, tư bản và đất đai tạo thành. Trao đổi hàng hoá sẽ giúp cho doanh nghiệp giải quyết các vấn đề tiền lương, doanh lợi và hưu bổng.

Thứ hai là giá trị sản xuất và trao đổi tùy thuộc vào mức độ cung và cầu trên thị trường. Cung nhiều thì giá bán sẽ hạ và ngược lại. Thị trường càng biến động tự do sẽ càng phát triển cao độ. Cạnh tranh ráo riết sẽ tạo được quân bình giữa cung và cầu, và giá thị trường sẽ tiến gần đến giá tự nhiên.

Từ những luận điểm này Smith triển khai các ý niệm về tiền lương, doanh lợi và hưu bổng. Cơ chế thị trường tự do sẽ đem lại giá bán thấp, lương công nhân cao và nhiều doanh lợi cho doanh nghiệp. Quyền lợi của công nhân và người tiêu thụ là quan trọng vì họ là thành phần đa số trong xã hội, trong khi doanh nghiệp chỉ lo hạ lương công nhân, tăng giá bán để tăng doanh thu.

Quyển hai

Smith lý giải mối quan hệ giữa giao lưu hàng hoá và tăng trưởng kinh tế. Sự hình thành, phát triển và phương cách đầu tư tư bản ảnh hưởng đến vấn đề nhân dụng hơn khối lượng tiền tệ. Phú cường của đất nước do nhiều yếu tố tạo thành mà mối quan hệ giữa giới lao động và những thành phần không sản xuất là chính, nhưng các khái niệm tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư, tư bản lưu động và cố định, thu nhập thuần và gộp, lao động có giá trị sản xuất và không có giá trị sản xuất cần phân biệt. Cuối cùng, vai trò tiền tệ chỉ là phương tiện trao đổi.

Lao động có ý nghĩa khi sản xuất tăng thêm giá trị cho mặt hàng, nhờ thế có thể mua bán được. Có những hình thức lao động không có giá trị sản xuất, nhưng cũng cần thiết thí dụ như người phát thư, đem lại thoải mái như ca sĩ và tối cần thiết như chánh án. Loại lao động này cũng có cái giá của nó nhưng giá trị sử dụng lại giới hạn. Khi nào tư bản đầu tư tạo nên doanh lợi thì lao động mới gọi là có yếu tố sản xuất, và tư bản càng chuyển động thì tư bản khác mới có thể được huy động.

Tùy theo phương cách đầu tư mà tư bản đem lại hiệu năng khác nhau và cùng một khối lượng tư bản, nhưng tùy theo lĩnh vực đầu tư lại kết quả có giá trị cách biệt. Theo Smith, nên đầu tư vào buôn sỉ hơn là lẻ, đầu tư nhiều hơn vào công nghiệp chế biến và nhiều nhất vào nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp sinh lợi nhiều nhất vì đất đai được sử dụng, điền chủ thu được hoa lợi và nông dân có thu hoạch. Nhưng quan điểm này ít được quan tâm vì là một vấn đề lịch sử: cách biệt rõ rệt giữa thành thị và nông thôn và ưu thế xã hội của giới thương nghiệp và nhà sản xuất công nghiệp so với nông dân và điền chủ.

Quyển ba

Smith trình bày mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn, dù dị biệt nhưng cả hai bổ sung nhau và lập thành một thị trường chung để cùng hưởng lợi. Khi đất đai được canh tác, thủ công phát triển, thương mại thành hình thì giao thương với các nơi khác được mở rộng. Nông nghiệp càng phát triển thì thị dân giàu có sẽ có khuynh hướng về nông thôn định cư và đầu tư vào nông nghiệp, vì vừa sinh lợi và vừa sống an nhàn.

Thời phong kiến tạo một trật tự mới cho xã hội, giới điền chủ ngự trị tại nông thôn, hưởng nhiều đặc quyền và quan tâm khai thác canh nông, nhưng luật thừa kế còn cản trở việc phân chia và mua bán đất đai. Lối sống thành thị thu hút nông dân đến tìm việc vì vừa có nhiều tiền và tiện nghi lại được hưởng nhiều tự do và luật pháp bảo vệ. Do đó, nhiều thành phố sầm uất thành hình, sự sung túc làm cho thị dân mua nhiều nông phẩm, thương giới đầu tư mạnh hơn vào nông nghiệp và giúp nông thôn phát triển. Tuy thế, bộ mặt nông thôn không thay đổi triệt để, vì các ảnh hưởng này khó lường được.

Quyển bốn

Smith thảo luận hệ thống mậu dịch và sản xuất nông nghiệp với hai lý thuyết là trọng thương do các thương nhân cổ vũ và trọng nông do giới điền chủ hỗ trợ. Hai lý thuyết này đề ra mục tiêu chung là chính sách kinh tế phải nhằm làm nâng cao lợi tức của dân chúng và tăng các khoản thu cho nhà nước.

Thuyết trọng thương có định kiến sai lạc và gây hậu quả tai hại. Quan điểm sai lạc vì cho rằng, sự giàu có của đất nước chỉ thuần túy là vấn đề gia tăng khối lượng tiền tệ, đặc biệt coi trọng quý kim và thúc đẩy phát triển mậu dịch. Chính sách cấm nhập khẩu, tăng quan thuế biểu và hỗ trợ xuất khẩu qua biện pháp trợ giá hoặc lập liên minh xuất khẩu gây thiệt hại cho thị trường nội địa.

Theo Smith, giàu có của đất nước là do số lượng hàng được bán ra trên thị trường, thành quả này tùy thuộc vào năng suất lao động và khối lượng nhân công khả dụng. Giới thủ công và thương nhân cũng được kể chung vào thành phần tạo nên giá trị sản phẩm. Tầm vóc của thị trường do mức độ tư bản đầu tư quyết định.

Muốn thịnh vượng, chính quyền nên tạo ra một hệ thống kinh tế tự do, cần giới hạn nhiệm vụ vào ba mục tiêu chủ yếu là quốc phòng, bảo vệ trật tự xã hội và tạo các cơ sở tiện ích công cộng, nhưng không để bị các nhóm lơị ích gây ảnh hưởng vì những chính sách phản tác dụng.

Quyển năm

Smith phân tích vai trò của nhà nước theo quan điểm kinh tế. Về công chi nhà nước nên giới hạn vào các mục tiêu quốc phòng, tư pháp, giáo dục và hỗ trợ mậu dịch. Về công thu, Smith phân loại các nguồn thu và đề xuất cách quản lý công sản, đặc biệt là giải quyết nợ công.

Mỗi xã hội có một hình thức nhà nước nhất định. Dù trong hình thức nào, nhà nước cũng phải nhận vai trò quốc phòng và công chi, quy định mọi phân công lao động và mậu dịch. Để xây dựng hạ tầng cơ sở nhà nước có quyền thu lệ phí sử dụng để trang trải kinh phí và tài trợ hệ thống tiểu học cho gia đình công nhân. Nhà nước phải điều tiết mức quân bình cung cầu và quy định tiền lương phải tương xứng với khả năng. Chính quyền cần dân chúng vì là người lính trong thời chiến và là người sản xuất trong thời bình. Cụ thể nhất là chính quyền phải đem lại giấc ngủ bình yên cho mọi người.

Về nguyên tắc thuế vụ, Smith đề ra tiêu chí công bình và hữu ích. Thuế phải bình đẳng (mọi người đóng thuế tuỳ theo thu nhập), an toàn (người đóng thuế hiểu rõ các loại thuế mình phải đóng qua luật lệ công minh), không tổn hại (người chịu thuế không bị thiệt hại quá mức khi đóng thuế) hiệu năng (thuế thực sự cần thiết cho công qủy, sở thuế không cồng kềnh và tốn kém, người dân có cảm tưởng được khích lệ đóng thuế hơn là tìm cách trốn thuế).

Nợ công là một hiện tượng phổ biến tại các nước tiên tiến vì lý do các nhà tư bản lo thủ lợi, chính quyền gây chiến tranh và không ai biết cách làm giảm nợ. Smith cho là các nước châu Âu gặp phải vấn đề này và sẽ đi đến suy thoái, về trường kỳ phải có những chính sách giảm nợ công, nhưng trong ngắn hạn tăng thuế là giải pháp.

Với một cách hành văn trong sáng ông đem đến cho người đọc một lối diễn giảng mới lạ về cách vận hành của nền kinh tế thị trường mà nội dung một số luận đề chính được tóm lược sau đây:

Nội dung

Homo oeconomicus

Tư lợi của con người là yếu tố then chốt trong các hoạt động kinh tế. Thí dụ của Smith được hậu thế truyền tụng là những người bán thịt, chế ruợu hay làm bánh mì không phải chỉ có ý tốt phục vụ xã hội mà họ sản xuất vì quyền lợi riêng mà mặc cả và trao đổi là một nghệ thuật để thuyết phục. Người làm ra sản phẩm muốn bán giá trị cung ứng và chứng tỏ rằng mình biết tự lo qua sản xuất hữu ích cho người khác.

Ích kỷ là một đề tài tranh luận sôi nổi vào thế kỷ XVIII tại Anh. Theo Smith khó giảm bớt khuynh hướng chạy theo tư lợi của con người, nhưng nên tìm sự đồng thuận với người khác, mà tiêu chí là sự đồng thuận của người thứ ba, ý kiến của một người dự khán trung dung. Động cơ chính của ích kỷ là làm cho mức độ sử dụng được tăng lên một cách tối ưu với một phương tiện hữu hạn, nên không coi đó là có ý xấu. Sinh lợi kinh tế sẽ đem lại phú cường cho đất nước, nhưng không thể chỉ giải thích bằng tư lợi, vì một người dành tiền tiết kiệm cho tuổi già, dùng tiền đầu tư để mua nhà, giúp thân nhân hay từ thiện sẽ đem lại những lợi ích khác nhau cho xã hội; không ai có hai trạng thái đối nghịch khi quyết định, hoặc là do vị kỷ hoặc vị tha. Ngược lại, theo Marx, nhà sản xuất chạy theo lợi nhuận và tạo ra bất công.

Trong đạo đức, Smith đề ra nguyên tắc thiện cảm, con người có khả năng tự đặt mình vào hoàn cảnh và cũng chia sẻ những cảm xúc của người khác. Trong kinh tế cũng tương tự, vì đó là khuynh hướng tự nhiên của con người khi biết suy nghĩ, diễn đạt, mặc cả và thuyết phục để trao đổi thương mại.

Kinh tế tăng trưởng không chỉ do ích kỷ, cảm thông mà còn do cạnh tranh. Chính cạnh tranh tác động làm cho cá nhân thay đổi thái độ tiêu thụ mà qua đó kinh tế phát triển. Ngoài cạnh tranh giữa các nhà sản xuất thì tin tức giữa nhà cung ứng và người tiêu thụ làm cho thị trường cạnh tranh ráo riết hơn. Trong thực tế chính quyền không thể tạo ra một hệ thống thông tin toàn hảo để mỗi người có cơ hội trình bày và thuyết phục người khác về công việc hay sản phẩm của mình. Vì thế nên một số nhà sản xuất toa rập nhau giảm giá lương, tăng giá bán, phân chia khu vực thị trường và gây áp lực chính quyền cấm nhập khẩu, tăng quan thuế biểu để bảo vệ quyền lợi trước các cạnh tranh ngoại quốc. Thị trường tự do cần một hệ thống thông tin toàn diện và cạnh tranh triệt để giúp mọi người có quyền sử dụng quyền của mình trong bình đẳng và tôn trọng đối tác, nhưng tự do cạnh tranh (laissez-faire) trong kinh tế và tự do ngoại thương (laissez-passer) là quan trọng nhất.

Laissez-faire

Smith đưa ra ba tiền đề chủ yếu: Một là một tình trạng hài hoà lý tưởng tiền định cho toàn xã hội là không tưởng, chúng ta phải chấp nhận có tranh chấp quyền lợi và để giải quyết, nhà nước tạo ra một cơ chế bảo vệ hữu hiệu để đem lại trật tự chung và công bình theo sự phát triển của quy luật khách quan.

Hai là tự do kinh tế mới tạo điều kiện phát triển cá nhân để làm cơ sở phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của các nhà tư bản là muốn đầu tư trong nước cho an toàn hơn ở ngoại quốc, nhưng khi họ chạy theo tư lợi, thì kết quả cuối cùng là sẽ mang lợi chung cho xã hội.

Ba là cơ chế thị trường không phải là một loại trò chơi được ăn cả ngã về không, mà là cơ hội thắng thua được phân chia không đồng đều, giá trị sử dụng tương đối và tạo nên mức thu nhập chênh lệch. Sự phát triển tiền lương, doanh lợi và hưu bổng là những dẫn chứng cho vấn đề này. Quyền lợi đối nghịch giữa nhà tư bản đầu tư và công nhân, giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ cho thấy luôn có xung đột xã hội.

Làm sao đem lại sự hài hoà trước những đối kháng thường trực này? Để giải quyết, Rousseau đề nghị phải nâng cao giáo dục nhằm tạo khả năng và ý thức chung sống; theo Marx phải đấu tranh nhằm xoá bỏ giai cấp thù địch, xã hội sẽ không còn tư bản và điạ chủ thống trị, công nhân sẽ hưởng giá trị lao động trọn vẹn.

Smith cho là một nguyên tắc chung sống chỉ đạt được khi tất cả mọi người cùng tôn trọng luật lệ trong một sân chơi tự do mà tinh thần khách quan trong hành động và hợp tác nhằm giải quyết những quyền lợi đối nghịch là chính. Smith tìm cách giải thích tư lợi là động cơ thúc đẩy, nhưng không ca ngợi theo đuổi tư lợi là lý tưởng trong đạo đức cũng như kinh tế. Smith không cổ vũ tự do tuyệt đối theo nghĩa laissez-faire, một lý tưởng mà Mill đã đề xuất trong Principle of Political Economy, vì chỉ có một sân chơi tự do và bàn tay vô hình điều khiển là điều kiện tiên quyết.

Bàn tay vô hình

Không phải Smith mà Montesquieu là người đầu tiên tìm ra khái niệm bàn tay vô hình trong tác phẩm De l´esprit des lois. Montesquieu cho rằng tham vọng chính trị của từng cá nhân sẽ tác động cho thể chế qua sức mạnh điều tiết của bàn tay này. Từ đó Smith áp dụng lý giải này trong kinh tế và đạo đức.

Trong kinh tế, Smith không coi bàn tay vô hình là một trật tự siêu hình hay một cơ chế tự động, mà là một sự điều tiết thông minh và hợp lý trong xã hội, một sự vận hành của một cơ chế có chức năng tự tổ chức điều khiển trong tiến trình sản xuất, đặc biệt nhất là về cung và cầu và không cần chính quyền can thiệp. Bàn tay vô hình không có phép lạ đem lại phúc lợi xã hội, mà cần có chính quyền tác động làm cho hữu hiệu hơn. Smith xem nhiệm vụ chính của nhà nước là quy định và áp dụng các quyền tự do cơ bản cho toàn dân, bảo vệ dân chúng trước ngoại xâm qua quốc phòng, chống những bất công xã hội bằng giám sát tư pháp và nâng cao dân trí qua phát triển giáo dục.

Về đạo đức, ông triển khai ý niệm này trong tác phẩm The Theory of Moral Sentiments. Khi cá nhân kết ước đều phải trả bằng một giá, cả hai thoả mãn được nhu cầu của mình, đó không phải là thiện tâm bố thí của nhà giàu, một cơ chế không cần kiểm soát của chính quyền và quy luật thị trường. Hiệu năng của bàn tay vô hình là sự đãi lọc qua thời gian và là một hình thức phân phối lợi tức gián tiếp.

Dù đề cao bàn tay vô hình, nhưng ông cho là kiến thức và khả năng của chính quyền là chủ yếu và chính sách theo đuổi phải khách quan và thuần lý, vì mỗi quyết định đều có hậu quả đến phân phối công bình xã hội.

Phân phối công bình

Nền kinh tế tư bản tạo cách biệt giàu nghèo và xung đột xã hội mà các đề tài luôn tranh cải là: Phân chia phúc lợi xã hội dựa trên trao đổi hay phân phối? Người dân có quyền đòi hỏi chính quyền phân phối theo khả năng hay nhu cầu? Chính quyền bảo vệ quyền tư hữu của người dân ở mức độ nào? tương đối hay tuyệt đối?

Khi Mandeville cho là không thể giải quyết nghèo đói được tận gốc vì là một thực tại xã hội không thể tránh thì Smith nghĩ rằng nước giàu hơn khi đa số thành phần trong xã hội khá hơn, cụ thể là người phát thư và công nhân lao động vừa có thể mua hàng giá rẻ và được lương cao. Không phải chỉ đóng góp của thiểu số nhà giàu mà đa số mới tác động tăng trưởng.

Vần đề công bình chỉ có thể đặt ra trong khuôn khổ của một xã hội tự do mà mỗi cá nhân hành động trong trách nhiệm. Mỗi người không những tự do kết ước mà còn sẳn sàng bồi thường các thiệt hại gây ra. Công bình trong phân phối là một vấn đề nền tảng và đòi hỏi sự thông minh trong thực hiện nhiều hơn là ý thức một nghĩa vụ đaọ đức. Luật pháp ổn cố là điều kiện để duy trì trật tự xã hội và tinh thần đoàn kết đem lại việc chung sống hài hoà.

Từ đó, vấn đề công bình phân phối, theo nhu cầu hay khả năng, mới đặt ra. Smith phê bình luật thừa kế thời phong kiến gây bất công và đòi hỏi thực thi công bình nhiều hơn trong việc phân chia gia sản. Đặc điểm của xã hội văn minh là người làm quá nhiều mà lại hưởng quá ít, nên bất công còn kéo dài và gây bất ổn xã hội.

Không phải lúc nào các quyết định kinh tế thuần lý cũng đem lại công bình. Tăng lương cho công nhân làm giá thành sản phẩm cao hơn, mặt hàng không có triển vọng xuất khẩu, đất nước nghèo hơn, cuối cùng vấn đề công bình không giải quyết được. Tranh luận này được Hume lý giải trước Smith.

Hume đề ra một mô hình quân bình ngoại thương mà các nước giàu sẽ không sợ bị các nước nghèo cạnh tranh phá giá vì tác dụng của nguyên tắc bình thông nhau. Có mối quan hệ giữa khối lượng tiền tệ và mức độ giá cả các mặt hàng trong một nước trong một thời kỳ nhất định. Gia tăng khối lượng tiền tệ làm tăng giá lương, hàng sẽ khó xuất cảng hơn, nhưng bù lại tiền nhiều sẽ có cơ hội đầu tư tại các nước nghèo nơi mà giá nhân công và nguyên vật liệu rẻ.

Nhưng qua thời gian thì đầu tư sẽ có tác dụng là giá lương và giá hàng tại các nước nghèo cũng đắt đỏ như nước giàu. Không phải gia tăng khối lượng tiền tệ hay tăng lương, mà chính phân công lao động quốc gia và quốc tế là giải pháp. Để tiếp tục duy trì ưu thế ngoại thương, nước giàu nên tập trung vào các phương thức sản xuất nặng về tư bản và kỷ thuật trong khi nước nghèo tiếp tục theo đuổi các phương thức sản xuất thâm dụng nhân công.

Smith tán đồng lập luận này và minh chứng là ba yếu tố chính đem lại cường thịnh của đất nước là phân công lao động, canh tân kỷ thuật và tự do cạnh tranh. Cùng một khối lượng công nhân và một loại trang thiết bị, nếu biết sử dụng hợp lý thì doanh nghiệp sẽ sản xuất được nhiều mặt hàng hơn, dù lương công nhân tăng, nhưng giá bán hạ hơn, nên bán được nhiều hơn và doanh nghiệp sẽ tăng doanh thu. Lương công nhân cao mà mặt hàng có giá thành rẻ là một hiện tượng nghịch lý nhưng lại là một thực tế cho những nước giàu, có trình độ kỷ thuật cao, biết phân công lao động và ngoại thương phát triển mạnh.

Gia tăng năng suất sẽ giải quyết vấn đề công bình trong từng doanh nghiệp và là cơ hội thực hiện công bình xã hội trong trường kỳ. Do đó, cần rà soát lại những giải pháp ngắn hạn chỉ phục vụ cho thương giới và các nhóm lợi ích. Smith xác nhận là nước giàu có thể mất đi một số ưu thế ngoại thương khi bị canh tranh với các nước nghèo, nhưng không vì lý do là một nước giàu mà nước khác phải nghèo, vì có quá nhiều yếu tố can thiệp, nhưng giá trị sản phẩm là chính.

Giá trị sản phẩm

Smith phân biệt có hai loại giá cho sản phẩm là trao đổi và sử dụng. Giá trao đổi do tình hình cung cầu trên thị trường quyết định và giá của sản phẩm tuỳ theo thời gian và công sức cần thiết làm ra. Hai lý thuyết này bổ sung cho nhau.

Smith lầm lẩn giữa giá trị sản phẩm và vấn đề phân phối khi ông không quan tâm đến khả năng doanh nghiệp áp lực giảm lương, ảnh hưởng phân phối và tăng giá bán giả tạo để sinh lợi. Không như Smith mô tả, hoa lợi của điền chủ, doanh lợi của doanh nghiệp và lương công nhân có tác động nhau trong việc định giá sản phẩm. Doanh nghiệp trong thời kỳ bộc phát không cần ép giá lương công nhân mà vẫn tăng doanh thu vì do thoả hiệp giá bán với các doanh nghiệp khác.

Một sản phẩm là do kết hợp giữa ba yếu tố lao động, đất đai và tư bản. Từ đó, ông phân biệt lao động sản xuất và không sản xuất, tiêu thụ của tư nhân vả đầu tư của doanh nghiệp. Với tất cả những hình thức đầu tư khác nhau doanh nghiệp tạo nên giá trị. Trong khi Marx cho giá trị lao động của công nhân là quan trọng nhất trong tiến trình sản xuất và giá trị thặng dư chỉ do công nhân mang lại. Không như Smith, Marx gộp chung giá trị đóng góp của điền chủ và nhà tư bản trong các tư liệu sản xuất.

Đầu tư không phải nhằm trả lương thấp cho công nhân và mua rẻ nguyên vật liệu mà là cạnh tranh về giá trị sản phẩm có hiệu năng hơn. Chiến lược loại bỏ đối thủ của doanh nghiệp nhắm hạ giá thành, nâng phẩm chất, bán giá rẻ, tăng mức cung và tạo sức cầu mà gia tăng năng suất, canh tân kỷ thuật và phát huy ưu thế cạnh tranh là yếu tố quyết định. Sự thịnh vượng của đất nước cũng cần những biện pháp tương tự, nhưng theo đuổi thuyết trọng thương không là giải pháp lý tưởng.

Thuyết trọng thương

Với hơn 230 trang sách trong quyển bốn Smith đưa việc phê phán thuyết trọng thương vào trọng điểm và khi bàn về cách vận hành của thị trường ông chỉ tóm tắt có mười trang.

Ông khởi đầu bằng chuyện bình thường trong xã hội là trong cuộc chạy đua ai cũng muốn thắng, nhưng khi người chạy cản trở người khác không có cơ hội cùng chạy là một chuyện không công bình mà các khán giả phải phản đối và trọng tài phải can thiệp. Từ thí dụ này ông áp dụng vào sinh hoạt kinh tế.

Hoạt động kinh tế cũng cần có quy luật vì đây là cuộc đua về sản xuất và phân phối sản phẩm cho xã hội. Ai tham gia vào tiến trình sản xuất để thoả mản nhu cầu xã hội, qua đóng góp đất đai, tư bản hay sức lao động, đều có quyền hưởng thành quả đóng góp. Sự phân phối thành quả này có trong từng nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp tìm cách thay đổi phương thức sản xuất do bí mật nghề nghiệp, bằng sáng chế mới để tạo độc quyền thị trường và tăng doanh thu. Họ có ưu thế xã hội hơn công nhân và người tiêu thụ.

Do đó, có mâu thuẫn quyền lợi giữa doanh nghiệp và công nhân, giữa doanh nghiệp và các đối thủ trong nước hay ngoại quốc. Họ đề cao là thịnh vượng của đất nước do bán nhiều hơn mua, bán hàng mắc và mua hảng rẻ. Bằng lập luận này họ áp lực chính quyền và thu phục công luận tin thuyết trọng thương là quyền lợi chung của đất nước. Theo Smith, họ chỉ bảo vệ quyền lợi riêng.

Theo lý thuyết, Smith cho là thị trường có ba giai đoạn khác nhau: tăng trưởng, đình trệ và suy thoái, tùy theo tình trạng phát triển mà sẽ có những hệ lụy khác nhau cho điền chủ, công nhân và nhà tư bản. Khi quyền lợi của điền chủ và công nhân phù hợp với quyền lợi công cộng, thì quyền lợi của nhà tư bản là ngược lại. Khi chủ tư bản lập luận tăng thu doanh lợi để phục vụ quyền lợi chung thì phải cần rà soát. Mở rộng thị trường có thể phục vụ công ích, nhưng giới hạn cạnh tranh thì chỉ phục vụ cho doanh nghiệp. Chính quyền phải cẩn trọng khi phân tích quyền lợi doanh nghiệp và đất nước khi theo đuổi chính sách trọng thương.

Dù vậy, theo thực thực tế thì chính sách thuộc điạ Anh là kết quả một sự nội gián của thương giới với chính quyền chỉ gây thiệt hại cho người tiêu thụ. Các nước thuộc địa khi nhập và xuất khẩu hàng phải quan trung gian Anh, một mục tiêu đặt ra chỉ nhằm thoả mản nhu cầu mẩu quốc. Nhưng Smith chứng minh là chính sách thuộc điạ đem lại nhiều quyền lợi hơn là gây thiệt hại, vì mở ra nhiều thị trường mới và đóng góp vào sự phát triển sản xuất khi trao đổi với các nước thuộc địa.

Khi Anh bảo vệ các thương thuyền trong các hoạt động mậu dịch viễn duyên và gây tác hại cho ngoại thương của Hà Lan tại các thuộc điạ, thì ông lập luận rằng độc quyền ngoại thương nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế và quốc phòng. Theo ông, khi hàng ngoại nhập rẻ phải đóng thuế quan cao để bằng với giá hàng nội điạ là tạo công bình, biện pháp này hợp lý. Khi các doanh nghiệp chiếm vai trò độc quyền kinh doanh trong ngắn hạn, thì không phạm nguyên tắc bình đẳng, vì nhu cầu cần thu lợi trong gia đoạn đầu tư ban đầu.

The Wealth of Nations là căn bản lý thuyết kinh tế tác động sâu xa đến toàn bộ sinh hoạt thị trường và gây tranh luận liên tục trong chính giới và học giới tại các nước phương Tây. Mỗi lần có khủng hoảng tác phẩm này lại đưọc đem ra để thảo luận mà những ảnh hưỏng chính được tóm luợc sau đây.

Ảnh hưởng

Thị trường sách

Tác phẩm ra đời và được bán sạch trong vòng sáu tháng, sau đó được tái bản vào năm 1778, 1784, 1786 và 1789. Sách được dịch sang tiếng Pháp (1778), Đan Mạch (1779) tiếng Ý (1779) tiếng Đức (1794) đem lại thành công thương mại cho nhà xuất bản. Cho đến nay sách được in lại nhiều lần và dịch nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả dành cho Smith có nhiều lý do.

Một là về cá nhân, sau khi tác phẩm Theory of Moral Sentiments ra đời vào năm 1759, Smith nổi danh như là một người tiên phong trong phong trào khai sáng tại Tô cách lan và châu Âu.

Hai là về hình thức, Smith chứng tỏ có văn tài xuất sắc, dù là đề tài khô khan nhưng đã diễn đạt bằng một văn phong cực kỳ trong sáng trong một bố cục mạch lạc nên thu hút người đọc không có kiến thức kinh tế. Văn giới châu Âu ca ngợi là sau De l’esprit des lois của Montesquieu chưa có danh phẩm nào có khả năng diễn đạt được tư tưởng của nhân loại bằng tác phẩm này.

Ba là về lý thuyết, nguyên tắc phân công lao động, phân biệt giữa các yếu tố sản xuất, các loại thu nhập và giao lưu hàng hoá đã được Cantillon, Hutcheson, Hume, Quesnay, Stueart và Turgot triển khai, nhưng Smith là người đầu tiên lý giải về cơ chế vận hành thị trường của nền kinh tế tự do một cách toàn diện qua một công trình nghiêm túc và quy mô. Các chủ đề của Smith được Ricardo, Malthus, Mill và Marx về sau đào sâu thêm thành các vấn đề mới như lợi điểm tương đối, dân số, tự do tuyệt đối trong kinh tế và bóc lột trong sản xuất công nghiệp.

Bốn là về thực tế, lập luận của Smith phù hợp với tâm trạng chung của thời đại khi phê phán về sự can thiệp bất hợp lý của chính quyền vì chỉ phục vụ các nhóm lợi ích mà cuối cùng làm suy sụp đất nước. Ông chỉ trích thương giới và các nhà sản xuất bảo vệ quyền lợi bằng cách ngăn trở cạnh tranh trên thị trường, thay vì sử dụng tư bản để đầu tư vì có nhiều hình thức mới đem lại nhiều hiệu năng trong tăng trưởng.

Chính giới

Ành hưởng của Smith với chính giới Anh khó xác định, dù tác phẩm này thoạt đầu đã gây tranh luận tại quốc hội. Những năm đầu tiên của nội các William Pitt đã thực hiện một số biện pháp đúng theo tinh thần của Smith đề ra: hạ thấp quan thuế biểu của trà nhập để làm cho việc buôn lậu trà không còn sinh lợi như trước (1784), liên hiệp kinh tế giữa Anh và Ái Nhĩ Lan (1785) nhưng đề án này thất bại, thoả hiệp mậu dịch với Pháp (1786), mà mục tiêu chính là hạ quan thuế biểu các mặt rượu nho và hàng dệt. Nhưng nội tình Anh gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách tự do mậu dịch và xung đột quyền lợi với Hoa kỳ và Pháp cũng là lý do. Mãi đến hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX thì tự do mậu dịch mới là trọng điểm trong chính sách kinh tế của Anh.

Nền công nghiệp Anh đã hình thành và sản phẩm Anh chiếm lĩnh nhiều thị trường các nước châu Âu. Từ năm 1815 Anh đứng trước một nghịch lý là tăng quan thuế biểu ngũ cốc để chống nhập khẩu từ châu Âu, trong khi lại đề cao tự do ngoại thương. Giới điền chủ và công nghiệp tại các nước châu Âu áp lực chính phủ phải tìm biện pháp trả đủa. Tranh chấp trở nên gay gắt khi doanh giới tại Manchester lập liên minh chống lại vấn đề vào năm 1839 và cuối cùng chính quyền phải huỷ bỏ quan thuế biểu cho ngũ cốc vào năm 1846. Họ thành công khi thuyết phục rằng nhập khẩu rẻ ngũ cốc sẽ làm giảm giá thành thực phẩm và nâng cao mức sống toàn dân, trong khi duy trì quan thuế biểu loại này chỉ có lợi cho giới điền chủ. Ngược lại, giới điền chủ cho là chống việc nhập ngũ cốc rẻ nhằm bảo vệ quyền lợi cả nước, trong đó có cả thương giới và giới sản xuất, vì họ có cơ hội tăng doanh thu.

Học giới

Thực tế này cho thấy ai cũng áp dụng lập luận tự do mậu dịch của Smith để bảo vệ quyền lợi, nhưng quan điểm của Smith hợp lý hay mâu thuẫn?

Đề tài này được học giới tranh luận vào đầu thế kỷ XIX được gọi chung là “vấn đề Smith“. Giới chống đối cho rằng lập luận của Smith là mâu thuẫn vì một người lo tư lợi không thể nào là một con người đạo đức và muốn dung hoà quyền lợi xã hội.

Giới bào chửa cho Smith cho rằng đây là một phương pháp luận có ý thức và không mâu thuẫn. Trước một thực tại xã hội phức tạp, Smith không dùng cách quy nạp mà dùng suy diển để lập luận. Thay vì dùng một số lượng lớn và đủ loại các quan sát để đề ra quy luật tổng quát, Smith đặt ra một số tình huống độc lập để theo dỏi và tìm các lý giải về động lực khích lệ cho hoạt động kinh tế.

Có nhiều lý giải khác dựa vào quá trình làm việc của Smith để biện hộ. Khi còn ở Tô Cách Lan ông thấm nhuần truyền thống đạo đức, nhưng khi sang Pháp khảo cứu ông bị ảnh hưởng những trào lưu tư tuởng theo vật chất của Pháp. Có người lại dựa vào mối quan hệ giữa hai tác phẩm của Smith để tìm ra mối tương đồng giữa hai quan điểm và kết luận rằng không có mâu thuấn mà là sự liên tục trong tiến trình tư duy.

Sở dĩ có lập luận chống Smith chỉ vì có nhiều hiểu lầm trong giải thích. Thiện cảm trong đạo đức và kinh tế của Smith không hề đồng nghĩa với bác ái. Không phải lúc nào thiện cảm, kể cả thiện cảm của người dự khán trung dung, cũng tác động tích cực đưa đến hành động kinh tế vì nguyên tắc tương xứng trong của mối quan hệ trên thị trường rất cần cho trao đổi, khía cạnh này cũng quan trọng như tư lợi.

Đến cuối thế kỷ XIX các tranh luận trong học giới xoay quanh “vấn đề Smith“ không còn gây một âm vang nào đáng kể.

***

Giới thiệu trang nhà của tác giả: https://kimthemdo.com/ 

0 comments

Leave a comment

Powered by Blogger.