Diễn biến trước ngày 30-4-1975
Trần Gia Phụng
20-4-2021
Trong chiến tranh 1954-1975 vừa qua trên đất nước chúng ta, cả Bắc Việt Nam (BVN) và Nam Việt Nam (NVN) đều không sản xuất được võ khí và đều nhờ nước ngoài viện trợ. Nước viện trợ chính cho NVN là Hoa Kỳ; và một trong hai nước viện trợ chính cho BVN là Liên Xô. Những biến chuyển từ hai nước nầy ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chiến tranh Việt Nam.
1.- HOA KỲ: VỤ WATERGATE
Tại Hoa Kỳ, trong cuộc bầu cử ngày 07-11-1972, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả Thượng viện lẫn hạ viện, trong khi đương kim tổng thống và phó tổng thống đảng Cộng Hòa là Richard Nixon và Spiro Agnew tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai. Cuối cùng cả hai ông đều từ chức vì hai lý do khác nhau.
Thứ nhứt, phó tổng thống Spiro Agnew bị cáo buộc tội hối lộ khi còn làm thống đốc tiểu bang Maryland. Ông từ chức ngày 10-10-1973. Ngày 12-10-1973, tổng thống Richard Nixon đề cử lãnh tụ khối thiểu số Cộng Hòa tại Hạ viện là Gerald Ford lên thay, được Thượng viện chấp thuận ngày 27-11, và Hạ viện thông qua ngày 6-12-1973.
Trong khi đó, tổng thống Richard Nixon gặp rắc rối về vụ Watergate. Tổ hợp Watergate ở thủ đô Washington DC gồm có sáu cơ sở, trong đó Watergate Office Building, số 2600 Virginia Ave. NW, trên tầng lầu 6, là nơi đảng Dân Chủ đặt tổng hành dinh.
Ngày 17-6-1972, năm người lạ mặt bị bắt khi đột nhập vào văn phòng đảng Dân Chủ. Cuộc điều tra của Cảnh sát Liên bang (FBI) về vụ đột nhập vào Watergate cho thấy năm người nầy đến văn phòng đảng Dân Chủ nhằm đặt máy nghe lén, để theo dõi sinh hoạt của đảng đối lập với tổng thống Richard Nixon, thuộc đảng Cộng Hòa. Dần dần người ta được biết rằng những nhân vật thân cận của tổng thống Nixon chủ trương vụ đặt máy nghe lén để chuẩn bị cuộc bầu cử tổng thống ngày 7-11-1972.
Vụ Watergate càng ngày càng nổ lớn. Từ ngày 9-5 đến 30-7-1974, Ủy ban Tư pháp Hạ viện Hoa Kỳ điều trần về vụ nầy, và ngày 30-7-1974 quyết định sẽ truy tố tổng thống Nixon. Để tránh bị truy tố, tổng thống Richard Nixon từ chức ngày 9-8-1974. Phó tổng thống Gerald Ford lên thay theo hiến định.
Những lời hứa hẹn của tổng thống Richard Nixon với tổng thống VNCH là Nguyễn Văn Thiệu, vốn mong manh vì không thông qua quốc hội, nay hoàn toàn tan biến theo sự từ chức của tổng thống Richard Nixon. Sự kiện nầy ảnh hưởng tức khắc đến tình hình Việt Nam.
Trong tài khóa chót, trước khi từ chức, tổng thống Richard Nixon quyết định viện trợ cho VNCH một tỷ Mỹ kim, nhưng ngày 11-8, quốc hội Hoa Kỳ do đảng Dân Chủ nắm đa số, cắt viện trợ xuống còn 700 triệu Mỹ kim. (John S. Bowman – tổng biên tập – The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 212.)
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gởi thư ngày 19-9-1974 cho tân tổng thống Gerald Ford, đề nghị Hoa Kỳ cấp thêm cho VNCH 300 triệu Mỹ kim đã bị cắt. Gerald Ford chuyển đề nghị của tổng thống Thiệu qua quốc hội Hoa Kỳ, nhưng bị quốc hội bác bỏ ngày 13-3-1975. (Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, California: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005, tr. 245.)
Sau chuyến viếng thăm Sài Gòn của đại tướng Frederick Weyand từ 27-3 đến 3-4-1975, tổng thống Gerald Ford đọc diễn văn trước quốc hội Hoa Kỳ ngày 10-4-1975, và xin viện trợ cho VNCH 722 triệu Mỹ kim. Ngày 14-4-1975, Ủy ban Ngoại giao Thượng viện chẳng những bác lời yêu cầu của tổng thống Ford, mà còn bảo tổng thống Ford rằng “hãy rút nhanh”. (Chính Đạo, 55 ngày đêm: Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1999, tr. 299.)
Theo đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, ngân khoản 700 triệu Mỹ kim viện trợ, bao gồm cả 46 triệu của cơ quan DAO (Defense Attach Office) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập ngày 28-1-1973.) Số còn lại chỉ cung cấp được một nửa nhu cầu thiết yếu của quân đội VNCH, trong khi hoạt động quân sự của cộng sản (CS) gia tăng 70%. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, (nguyên bản The Final Collapse), Nguyễn Kỳ Phong dịch, không đề nơi xuất bản, Vietnambibliography, 2003, tr. 83, 85.)
Sự kiện Watergate ngày 17-6-1972 chỉ là một biến cố nhỏ trong nền chính trị Hoa Kỳ, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến chiến tranh ở Việt Nam, vì sau đó quốc hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho VNCH.
2.- LIÊN XÔ: CAM KẾT CỦA KULIKOV
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở BVN do đảng Lao Động cai trị. Đảng Lao Động tức đảng CS đổi tên năm 1951. Tại Hà Nội, trong cuộc họp từ ngày 30-9-1974 đến ngày 8-10-1974, bộ Chính trị (BCT) đảng Lao Động đưa ra chủ trương “giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976”, đồng thời phê chuẩn kế hoạch hai năm và kế hoạch tác chiến năm 1975 của bộ Tổng tham mưu quân đội CS. (Viện Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Lênin Và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 1995, tr. 648.)
Lúc đó, kế hoạch quân sự tại NVN năm 1975 của BCT đảng Lao Động là CS tiếp tục lấn đất giành dân, chỉ sử dụng 10% võ khí dự trữ, tấn công những mục tiêu lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng VNCH. Đến cuối năm 1976, khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ thì CS sẽ tiến đánh toàn bộ NVN. Như thế nghĩa là kế hoạch năm 1974 của CS dự tính chưa tổng tấn công NVN trong năm 1975.
Giữa tháng 11-1974, bí thư Trung ương cục miền Nam là Phạm Hùng cùng Trần Văn Trà, tư lệnh mặt trận B2 của CS, đến Hà Nội. (Mặt trận B2 của CS từ Bình Thuận xuống tới Ca Mau.) Hai ông đề nghị đánh Đôn Luân (Đồng Xoài) và chiếm tỉnh Phước Long vì: 1) Về quân sự, chiếm Phước Long làm thông đường chiến lược từ khu phi quân sự xuống tận vùng III Chiến thuật của VNCH, đồng thời cầm chân tại đây các đơn vị tổng trừ bị VNCH. 2) Về chính trị, chiếm được Phước Long sẽ làm giảm uy tín của VNCH và thử đo lường phản ứng của Hoa Kỳ sau khi rút quân và sau hiệp định Paris (27-01-1973).
Kế hoạch nầy lúc đầu không được Quân ủy Trung ương đảng Lao Động chấp thuận vì Bộ Tổng tham mưu BVN đã soạn sẵn kế hoạch hành quân năm 1975 và đã được BCT đảng Lao Động thông qua. Ngày 3-12-1974, Phạm Hùng và Trần Văn Trà khiếu nại với Quân ủy Trung ương, nhưng cũng bị từ chối.
Sau đó khoảng 10 ngày, Phạm Hùng cùng Trần Văn Trà gặp Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động, thì Lê Duẩn chấp thuận đánh Đôn Luân và Phước Long với điều kiện “phải chắc thắng và không được sử dụng lực lượng lớn” để tiết kiệm võ khí. Trần Văn Trà liền gởi điện về miền Nam, ra lệnh cho lực lượng CSNVN tiến hành chiến dịch Phước Long. (Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, TpHCM: Nxb. Văn Nghệ Thành Phố, 1982, tr. 170.)
Trong khi BCT đảng Lao Động ở Hà Nội đang chọn hướng tấn công, thì nguồn tin tình báo cao cấp của CS cài vào dinh Độc Lập cho biết rằng trong cuộc họp hai ngày 9 và 10-12-1974 giữa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, thủ tướng Trần Thiện Khiêm và các tướng lãnh, hội nghị đã dự đoán rằng CS sẽ đánh chiếm Tây Ninh nhằm làm thủ đô cho chính phủ Lâm thời CHMNVN. Vì thế tổng thống Thiệu dự tính đưa các lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến về bảo vệ ven đô Sài Gòn. Nguồn tin nầy đến giới lãnh đạo Hà Nội trễ nhứt là ngày 20-12-1974. (Chính Đạo, sđd. tt. 152-153. Trần Đông Phong, sđd. tr. 73.) Theo cựu trung tướng VNCH Trần Văn Đôn, trong Việt Nam nhân chứng (California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 159 và tr. 498), sau khi bị ném bom ngày 27-2-1962 thời tổng thống Ngô Đình Diệm, dinh Độc Lập được tái thiết. Cả Hoa Kỳ lẫn CS Bắc Việt Nam đều cho người trà trộn vào nhóm chuyên viên, đặt máy truyền tin nghe lén trong dinh Độc Lập.
Vào dịp “Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập quân đội” VNDCCH (22-12-1944 / 22-12-1974), đại tướng Viktor Kulikov, thứ trưởng bộ Quốc phòng kiêm tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô, đại diện cho Hồng quân Liên Xô, đến Hà Nội tham dự
Trước ngày 22-12-1974, Viktor Kulikov có mặt tại hội nghị lần thứ 23 của ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động khai mạc ngày 18-12-1974, để bàn về kế hoạch tấn công NVN trong hai năm kế tiếp (1975-1976). Trong cuộc họp nầy, Kulikov thông báo cho Trung ương đảng Lao Động hai điều: 1) Theo tin tình báo Liên Xô, Hoa Kỳ sẽ ngưng cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho NVN, nên đây là cơ hội thuận tiện để BVN tấn công NVN. 2) Liên Xô cam kết gia tăng viện trợ quân sự cho BVN, để tấn công NVN.
Sau khi dự lễ tại Hà Nội ngày 22-12-1974, Viktor Kulikov về Moscow. Ngay sau đó, viện trợ Liên Xô tăng gấp bốn (4) lần trong các tháng đầu năm 1975. (Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.)
Lúc đó, Liên Xô tăng viện cho BVN có thể vì ba lẽ: 1) Liên Xô muốn trả đũa Hoa Kỳ về vụ quốc hội Hoa Kỳ đưa tu chánh vào bản Hiệp ước về thương mại 1974 (The Trade Act 1974), giới hạn việc cho Liên Xô vay tiền nếu Liên Xô gây khó khăn cho người Do Thái di dân qua các nước khác. Liên Xô cho rằng Hoa Kỳ can thiệp vào việc nội bộ của Liên Xô. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 27-28.) 2) Liên Xô muốn lôi kéo Bắc Việt Nam về phía Liên Xô trong cuộc tranh chấp với Trung Cộng. 3) Liên Xô nhận thấy sau khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho VNCH, VNCH hết hỏa lực, chắc chắn sẽ thất bại trước những cuộc tấn công với hỏa lực dồi dào của BVN, nghĩa là Liên Xô đầu tư cho tương lai ở Đông Nam Á.
KẾT LUẬN
Tóm lại sau hiệp định Paris (27-01-1973), trong khi Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ đạn dược và nhiên liệu cho VNCH, khiến quân đội VNCH thiếu phương tiện chiến đấu, thì trái lại, Liên Xô gia tăng gấp bốn (4) lần viện trợ quân sự cho quân đội VNDCCH, làm cho tương quan lực lượng giữa hai bên trong cuộc chiến, nghiêng hẳn về phía VNDCCH.
Những diễn biến chính trị trên đây trong năm 1974 cho thấy viễn ảnh rất khó khăn của VNCH trong năm 1975. (Nguồn: Chiến tranh 1954-1975, sẽ xuất bản.)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, tháng 4-2021)
0 comments