Tin Biển Đông – 13/08/2020
Sự khác biệt giữa Mỹ và TQ trên vấn đề Biển Đông
Cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng gay gắt. Cả hai bên đều có những động thái mạnh mẽ ở Biển Đông thời gian qua với những phát biểu qua lại chỉ trích lẫn nhau cùng với việc điều các phương tiện vũ khí hiện đại nhất đến hoạt động ở Biển Đông, liên tiếp tiến hành tập trận…làm cho tình hình Biển Đông căng thẳng.
Tuy nhiên, có sự khác biệt cơ bản giữa Mỹ và Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông được thể hiện qua cả lời nói và hành động, chúng ta cùng xem từng khía cạnh của vấn đề:
1. Về quan điểm, thái độ pháp lý
Mưu đồ của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, coi Biển Đông như “ao nhà” của họ. Trung Quốc yêu sách đến 90% diện tích Biển Đông, chà đạp lên quyền và lợi ích chính đáng của các nước ven Biển Đông được xác định phù hợp với luật pháp quốc tế.
Một là, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) được coi là “Hiến pháp của đại dương”, có trên 160 quốc gia thành viên. Trung Quốc đã ký và phê chuẩn UNCLOS, nhưng ngang nhiên phớt lờ các nghĩa vụ của mình được quy định trong UNCLOS.
Luật pháp quốc tế được thể hiện trong UNCLOS là nền tảng cho một trật tự quốc tế trên biển, trong đó có Biển Đông dựa trên luật pháp. Nó quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi quốc gia ven biển trong việc xác định các vùng biển của mình và thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng biển hợp pháp của mình, có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc gia ven biển khác. UNCLOS quy định quyền và sự tự do hàng hải; là căn cứ cho việc bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển. UNCLOS thiết lập các nguyên tắc mà tất cả các quốc gia – bất kể lớn hay nhỏ về diện tích, về sức mạnh quân sự hay về kinh tế – đều có thể khai thác hợp pháp các nguồn tài nguyên ngoài khơi của mình.
Trung Quốc là thành viên UNCLOS, lại là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhưng họ không tuân thủ các quy định của UNCLOS, thậm chí chà đạp lên các quy định của UNCLOS. Họ tự vạch ra cái gọi là “luật rừng” theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” để bắt nạt các nước ven Biển Đông. Các nước khu vực và cộng đồng quốc tế thường xuyên kêu gọi Bắc Kinh tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS nhưng họ đều “bỏ ngoài tai”
Mỹ chưa phải là thành viên UNCLOS, nhưng Washington thừa nhận những điều khoản của UNCLOS về việc sử dụng đại dương một cách truyền thống là sự phản ánh luật pháp quốc tế, mang tính thông lệ. Mỹ khẳng định tuân thủ những điều khoản của UNCLOS. Những tuyên bố về chính sách đối với Biển Đông của Mỹ gần đây thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật ở Biển Đông. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm 27/6/2020 ủng hộ lập trường của ASEAN giải quyết hòa bình các tranh
chấp trên cơ sở quy định của UNCLOS được thể hiện trong Tuyên bố Hội nghị thượng đỉnh ASEAN trực tuyến (26/6/2020).
Công thư của Đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc hôm 01/6 và Tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo hôm 13/7/2020 đều thể hiện rõ tinh thần tôn trọng và tuân thủ các quy định của UNCLOS; kêu gọi các quốc gia làm rõ yêu sách của mình phù hợp với luật pháp quốc tế được phản ánh trong UNCLOS, yêu cầu Trung Quốc và các nước thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS. Trái ngược hoàn toàn với Trung Quốc, Mỹ đứng về phía chính nghĩa, đứng về phía luật pháp quốc tế, ủng hộ các quốc gia ven Biển Đông thực hiện các quyền lợi hợp pháp của mình theo UNCLOS.
Hai là, ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết kết luận không có cơ sở pháp lý cho bất cứ quyền lịch sử, quyền chủ quyền và quyền tài phán nào của Trung Quốc trong yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển Đông. Là thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tuân thủ phán quyết của PCA. Thế nhưng, Bắc Kinh đã coi phán quyết của PCA như “tờ giấy lộn” và tiếp tục đẩy mạnh các yêu sách phi pháp của họ thông qua các hoạt động lấn lướt, bắt nạt các nước láng giềng ven Biển Đông.
Trong hơn 4 năm qua, kể từ khi phán quyết ra đời, cộng đồng quốc tế theo dõi với mối quan ngại ngày càng lớn khi Bắc Kinh phớt lờ phán quyết của PCA và đẩy mạnh chiến dịch đe dọa, xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của các nước láng giềng ven Biển Đông. Bất chấp luật pháp quốc tế, trong đó có phán quyết của PCA, Trung Quốc hành động theo kiểu gây rối, cưỡng chế, phá hoại, đưa thông tin sai lệch, chối bỏ các thỏa thuận và coi thường các hiệp ước quốc tế. Bắc Kinh lợi dụng đại dịch Covid-19 để thúc đẩy các yêu sách phi pháp của họ đi xa hơn, thay thế luật pháp quốc tế bằng tư duy “chân lý thuộc về kẻ mạnh”.
Trong khi đó, Mỹ coi phán quyết của PCA là đóng góp quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu chung là giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông; coi phán quyết của PCA là cuối cùng và ràng buộc về pháp lý.
Trong Tuyên bố hôm 13/7/2020, Mỹ căn cứ vào phán quyết 12/7/2016 bác bỏ hầu hết các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông từ “đường lưỡi bò” cho đến cái gọi là yêu sách “Tứ Sa” gần đây. Theo đó, Mỹ tuyên bố vì Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra được một yêu sách hàng hải hợp pháp và đáng tin cậy nào, nên Mỹ phản đối bất cứ yêu sách vùng biển nào ngoài 12 hải lý của các cấu trúc nổi ở Biển Đông, phản đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các bãi ngầm ở Biển Đông.
Tuyên bố 13/7 của Mỹ bác bỏ mọi yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở những vùng nước xung quanh bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), cụm bãi cạn Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển thuộc EEZ của Brunei, và đảo Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia); coi bất kỳ hành động đơn phương nào của Trung Quốc hoặc hành vi quấy rối việc đánh cá và phát triển năng lượng của các bên khác ở những vùng biển này là phi pháp. Tuyên bố của Mỹ không chỉ thể hiện sự coi trọng giá trị phán quyết 12/7/2016 của PCA mà còn là bước cụ thể hóa thêm những nội dung phán quyết vào các khu vực cụ thể ở Biển Đông.
Điểm quan trọng nhất là trong khi Mỹ ủng hộ việc các quốc gia ven Biển Đông sử dụng biện pháp pháp lý để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông thì Trung Quốc lại phản đối việc sử dụng pháp lý bởi chính họ biết rõ các yêu sách của họ ở Biển Đông là không có căn cứ pháp lý.
2. Về các hành động trên thực địa ở Biển Đông
Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động bồi đắp, mở rộng và quân sự hóa các cấu trúc ở Biển Đông thành các tiền đồn quân sự để khống chế, kiểm soát Biển Đông, ngăn cản tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; đưa tàu khảo sát cùng các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các nước ven Biển Đông bất chấp phản đối quốc tế; cho tàu hải cảnh đâm chìm các tàu cá của ngư dân các nước ven Biển Đông; cho số lượng lớn tàu cá dưới sự hộ tống của các tàu hải cảnh hoạt động trái phép trong vùng biển của các nước láng giềng; điều các máy bay chiến đấu tới các căn cứ quân sự mà họ xây dựng bất hợp pháp ở Biển Đông và liên tiếp tiến hành diễn tập quân sự bắn đạn thật để hăm dọa các nước láng giềng ven Biển Đông. Ý đồ của Bắc Kinh là tạo ra một thực trạng mới ở Biển Đông và bắt các nước phải chấp nhận.
Trong khi đó, các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông dựa trên quy định của luật pháp quốc tế phản ánh trong UNCLOS. Các chiến dịch tự do hàng hải của hải quân Mỹ ở Biển Đông, kể cả trong phạm vi các cấu trúc mà Trung Quốc chiếm đóng là nhằm duy trì trật tự dựa trên luật lệ, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông theo tinh thần “tàu chiến và máy bay Mỹ hoạt động ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. Việc Mỹ tiến hành diễn tập quân sự kể cả tàu sân bay Mỹ là nhằm ngăn chặn những hành động leo thang của Trung Quốc, phá mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Trên thực tế mọi người đều thấy rõ, lực lượng hải quân và tuần duyên Mỹ chưa có bất kỳ một hành động đâm va nào vào tàu cá của ngư dân các nước ven Biển Đông và Mỹ chưa có bất cứ một hành vi nào quấy nhiễu hay gây khó khăn cho các hoạt động dầu khí của các nước ven Biển Đông trong các vùng biển của các nước này được xác định phù hợp với UNCLOS. Không những không có hành động gây hại cho ngư dân Việt Nam, Mỹ còn hợp tác hỗ trợ ngư dân Việt Nam trước những đe dọa bất hợp pháp trên biển thông qua việc ký Biên bản ghi nhớ về việc Mỹ hỗ trợ Việt Nam tăng cường năng lực thực thi pháp luật thuỷ sản và quản lý nghề cá.
3. Từ góc độ khu vực và quốc tế
Trong khi Mỹ luôn kêu gọi và ủng hộ sự đồng thuận trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông, ủng hộ ASEAN có tiếng nói chung và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong duy trì hòa bình, ổn định khu vực nói chung và xử lý các tranh chấp Biển Đông nói riêng thì Trung Quốc lại tìm cách phá hại ASEAN. Bắc Kinh dùng mọi thủ đoạn từ dọa nạt cho đến mua chuộc bằng tài chính để phân hóa, chia sẽ ASEAN trên vấn đề Biển Đông, thậm chí can thiệp, phá rối để Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN tại Campuchia năm 2012 không ra được Tuyên bố chung vì vấn đề Biển Đông.
Trong khi các nước khu vực và cộng đồng quốc tế phản đối yêu sách phi lý của Bắc Kinh ở Biển Đông; thường xuyên lên án các hành vi, cách hành xử và thái độ của Trung Quốc đối với Biển Đông thì quan điểm và lập trường của Mỹ trên vấn đề Biển Đông lại nhận được sự hoan nghênh của nhiều nước, trong đó có tất cả các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp Biển Đông (Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và gần đây nhất là Brunei) đều đã lên tiếng ủng hộ quan điểm về Biển Đông của Mỹ dựa trên luật pháp quốc tế.
Có lẽ chưa tìm thấy một quốc gia nào lên tiếng ủng hộ yêu sách và các hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông mà chỉ toàn bày tỏ sự lo ngại, phê phán. Tuyên bố 13/7 của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo về Biển Đông không chỉ nhận được sự hoan nghênh của các nước liên quan đến tranh chấp Biển Đông mà còn nhận được sự ủng hộ của nhiều nước khác như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, Hàn Quốc….
Đưa ra những phân tích, so sánh kể trên để thấy rõ ai chính là kẻ đang gây rối ở Biển Đông. Bắc Kinh luôn tìm cách “đổi trắng thay đen” những gì liên quan đến Biển Đông, song không thể làm thay đổi sự thật khách quan mà mỗi người có lương tri trên thế giới đều có thể nhận ra.
http://biendong.net/bien-dong/36316-su-khac-biet-giua-my-va-tq-tren-van-de-bien-dong.html
Biển Đông: Mỹ gia tăng sức ép lên Trung Quốc,
ASEAN rụt rè
Nguyễn Thanh Hằng
Nếu có thể khai thác sự tức giận tập thể ở Đông Nam Á về các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, các quốc gia ASEAN sẽ được hưởng lợi từ sự hiện diện ngày càng gia tăng của Mỹ ở khu vực này.
“Bạn bè của kẻ thù của bạn chính là kẻ thù của bạn; còn kẻ thù của kẻ thù của tôi mới là bạn của tôi” là một câu ngạn ngữ nổi tiếng, và nó có thể đúng với những diễn biến tình hình hiện nay ở Biển Đông, nơi tất cả các quốc gia Đông Nam Á thấy rằng chủ quyền và lợi ích của họ đang phải đối mặt với mối đe dọa chung từ Trung Quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, không chỉ các quốc gia có yêu sách đang bị đe dọa. Nhiều quốc gia khác, bao gồm cả Mỹ, muốn bảo vệ lợi ích của tự do hàng hải và an ninh ở đó, khiến Biển Đông trở thành mối quan tâm lớn hơn nhiều, chứ không chỉ là các cuộc tranh chấp giữa các quốc gia láng giềng.
Tuyên bố Biển Đông của Hoa Kỳ
Ngày 13/7/2020, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa ra một tuyên bố báo chí về quan điểm của nước này đối với các yêu sách ở Biển Đông do Ngoại trưởng Mike Pompeo ký. Tài liệu vắn tắt này đã nhắc lại chính sách trước đây của Mỹ về tranh chấp Biển Đông, đó là duy trì “tự do hàng hải, hòa bình và an ninh trong khu vực”. Một số người đọc tài liệu này cho rằng Mỹ đang tìm cách ủng hộ các nước Đông Nam Á có yêu sách ở vùng biển này, muốn can dự với bất kỳ quốc gia nào quan tâm đến cuộc tranh chấp, với mục tiêu biến Trung Quốc thành mối đe dọa chung. Thực vậy, tài liệu này đã chọn cách trích dẫn công khai lời nói hồi năm 2010 của Ngoại trưởng Trung Quốc Đường Gia Triền khi nhìn vào mắt Ngoại trưởng Singapore trong một hội nghị diễn ra hồi đó: “Trung Quốc là một nước lớn, còn các nước khác là nước nhỏ, và đó là thực tế”.
Việc công bố tài liệu này có thể là một tín hiệu cho thấy Mỹ đang xem xét tranh chấp này một cách nghiêm túc hơn và có thể tăng cường sự hiện diện của mình ở khu vực tranh chấp này. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì đối với các nước ASEAN liên quan đến tranh chấp biển Đông? và các nước này sẽ đạt
được điều gì từ sự hiện diện quyết đoán hơn của Mỹ trong khu vực? Văn kiện vắt tắt mở đầu bằng cách viện dẫn “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, một nỗ lực mới nổi nhằm xây dựng quan hệ hợp tác của Mỹ với các nước khu vực trong bốn trụ cột chính: thịnh vượng kinh tế, quản trị tốt, an ninh và vốn con người.
Tuần trước, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Pompeo cũng đã gọi điện cho Ngoại trưởng một số quốc gia ASEAN, bao gồm:
- Với Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi (3/8): Hai bên thảo luận về quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Indonesia và sự tôn trọng chung của hai nước đối với luật pháp quốc tế tại Biển Đông, cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác và đảm bảo an toàn khu vực.
- Với Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan (3/8): Ngoại trưởng Balakrishnan khẳng định lại lập trường nhất quán của Singapore về Biển Đông: Singapore tôn trọng các quyền tự do hàng hải và hàng không, ủng hộ duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, và mong muốn các tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
- Với Ngoại trưởng thứ 2 của Brunei, Erywan Yusof (4/8): Ngoại trưởng Pompeo khẳng định lại sự ủng hộ của Mỹ đối với các quốc gia ven biển Đông Nam Á trong việc bảo vệ các quyền chủ quyền và lợi ích phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời nhấn mạnh sự phản đối của Mỹ trước các hành động cưỡng ép của Trung Quốc nhằm thúc đẩy các yêu sách phi pháp tại Biển Đông.
- Với Ngoại trưởng Malaysia Hishammuddin Hussein (6/8): Ngoại trưởng Hussein nhấn mạnh rằng các tranh chấp cần được giải quyết một cách hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.
Với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (6/8): Ngoại trưởng Pompeo đánh giá cao việc hai nước tăng cường và mở rộng quan hệ Đối tác toàn diện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau cũng như chia sẻ tầm nhìn chung về hòa bình, ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; khẳng định Hoa Kỳ coi trọng và cam kết duy trì quan hệ ổn định với Việt Nam. Ngoài ra, Ngoại trưởng Pompeo còn nhấn mạnh việc Hoa Kỳ ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á trong việc đòi hỏi quyền chủ quyền cũng như lợi ích biển của các quốc gia này theo luật pháp quốc tế.
Sự hưởng ứng rụt rè của các nước ASEAN
Cho đến nay, phản ứng của các quốc gia ASEAN dường như rất rụt rè trước lập trường sự mạnh mẽ, quyết đoán của Hoa Kỳ. Đầu năm nay, Philippines, Việt Nam và Indonesia đã viện dẫn phán quyết Biển Đông của tòa trọng tải trong các đệ trình của họ gửi lên Liên hợp quốc sau đề xuất của Malaysia về mở rộng thềm lục địa. Còn Malaysia sau một thời gian “im hơi lặng tiếng” cũng đã lên tiếng chỉ trích các yêu sách biển trái với luật pháp quốc tế và UNCLOS của Trung Quốc nhưng cũng giữ im lặng đối với Phán quyết Biển Đông năm 2016.
Khi Ngoại trưởng Mike Pompeo gọi điện cho Ngoại trưởng Indonesia tuần trước, ông đã nhắc lại sự ủng hộ của Mỹ đối với các nước Đông Nam Á trong việc củng cố quyền chủ quyền và lợi ích của họ theo luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Đáp lại lời kêu gọi của Ngoại trưởng Pompeo, Indonesia đã nhắc lại quan điểm trung lập của mình và nói rằng ưu tiên hàng đầu của chính phủ Indonesia là tình hình dịch bệnh COVID-19, đề cập đến việc hỗ trợ máy thở và theo đuổi vaccine. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là việc Indonesia khẳng định rằng lợi ích của họ là giữ vững hòa bình và an ninh khu vực.
Thay vì đưa ra quan điểm rõ ràng trong việc phản đối hay ủng hộ ý tưởng “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, Indonesia đã đi đầu trong việc đưa ASEAN vào cuộc đàm luận về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhấn mạnh tính trung tâm của ASEAN trong việc đảm bảo cạnh tranh khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc để không biến thành đối đầu. ASEAN làm như vậy với hy vọng điều này có thể trở thành một tầm nhìn chung cho các nước thành viên khi vai trò của khối này ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tăng lên.
Indonesia lâu này được coi là một “nhà môi giới” trung thực trong tranh chấp ở Biển Đông. Điều quan trọng, Indonesia không phải là quốc gia có yêu sách đối với bất kỳ hòn đảo hay thực thể hàng hải nào ở Biển Đông. Indonesia về cơ bản chia sẻ với Mỹ mục tiêu đơn giản là duy trì hòa bình và an ninh khu vực, cũng như tự do hàng hải ở Biển Đông, chứ không phải là lợi ích vật chất về lãnh thổ hay các mục tiêu chiến lược khác. Tuy nhiên, việc Indonesia không phải là một bên có yêu sách trong tranh chấp này nên khiến nước này không leo thang căng thẳng với Trung Quốc. Kể từ năm 2016, “Đường chín đoạn” bất hợp pháp đã gây ra căng thẳng lớn giữa Indonesia và Trung Quốc, và nhiều tàu đánh cá của Trung Quốc đã đến vùng biển Bắc Natuna của Indonesia một cách bất hợp pháp. Vì rõ ràng là một bên liên quan hợp pháp trong cuộc tranh chấp, nhưng động cơ của Indonesia ít có khả năng tư lợi hay đẩy căng thẳng lên cao, nước này có thể giữ một vị trí hữu ích duy nhất là giúp các bên ngồi vào bàn đàm phán, một điều có thể được thúc đẩy bởi sự hiện diện ngày càng tăng của Mỹ trong khu vực do những mục tiêu chung của họ. Rõ ràng, lợi ích của Indonesia là nhằm đảm bảo tất cả các nước trong tranh chấp bao gồm Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế, và điều này phù hợp với những do ngại mà Mỹ nêu ra trong thông cáo báo chí.
Ngày 6/8, Ngoại trưởng Pompeo cũng gọi điện cho Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam. Tờ Báo Chính phủ – Cơ quan ngôn luận chính thức của chính phủ Việt Nam khi tường thuật về sự kiện này đã lảng tránh lời khẳng định sẽ hậu thuẫn các quốc gia ASEAN trong việc thực hiện quyền chủ quyền và bảo vệ các lợi ích biển của Ngoại trưởng Pompeo. Lời khẳng định này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đã đe doạ các quốc gia như Malaysia, Việt Nam, Philippines, Indonesia khai thác dầu khí tại vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia này, với lý do các khu vực này nằm trong yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Năm 2017 và 2018, chính phủ Việt Nam thông qua tập đoàn dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) yêu cầu công ty Repsol phải ngưng hoạt động khai thác tại các lô 136.3 và 07.3, dẫn đến Việt Nam đã thiệt hại hàng tỉ USD với việc ngưng khai thác này. Mới đây, nghe phong phanh Việt Nam tiếp tục thuê giàn khoan thăm dò của tập đoàn Noble với ý định tiếp tục khai thác mới tại lô 06.1, nhưng dưới sự đe doạ của Trung Quốc, Việt Nam đã đành rút lui sau khi trả hàng chục triệu USD tiền thuê giàn khoan mà không hoạt động này.
Mặc dù các lãnh đạo các quốc gia ASEAN đều nhấn mạnh rằng sẽ cố gắng không“chọn bên” giữa Trung Quốc và Mỹ. Tuy vậy, các quốc gia này cần gắn mục tiêu của mình với mục tiêu của Mỹ ở Biển Đông. Với việc lên tiếng của cả một nhóm lớn các quốc gia, chứ không chỉ riêng một quốc gia đơn lẻ, điều đó có thể giúp các nước ASEAN tránh khỏi áp lực của Trung Quốc. Nhưng nếu các nước Đông Nam Á tiếp tục hành động cùng các đối tác của mình ở khu vực, với một sự hiện diện mạnh mẽ hơn của Mỹ trên Biển Đông, thì có thể gây sức ép với Trung Quốc buộc nước này phải tuân theo luật pháp quốc tế. Với sự hiện diện ngày càng gia tăng của Mỹ trong khu vực, sẽ khiến gia tăng sức ép lên Trung Quốc, mặc dù không trực tiếp mang lại lợi ích cho các nước có yêu sách, nhưng có thể kết hợp với hành động ngoại giao tập thể để ngăn chặn Trung Quốc hành động như một cường quốc khu vực thống trị Biển Đông bất chấp vi phạm luật pháp quốc tế.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
0 comments