Tin Biển Đông – 08/04/2020
TQ đang sử dụng linh hoạt các nguồn khác nhau,
đa dạng hóa các sản phẩm tuyên truyền
cho các yêu sách chủ quyền phi pháp ở Biển Đông
Trong hàng thập kỷ qua, Bắc Kinh đã và đang tích cực tuyên truyền hướng lái, củng cố cho cái gọi là “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc trên Biển Đông. Đây được xem là công cụ đắc lực hỗ trợ nước này theo đuổi mục tiêu kiểm soát hoàn toàn Biển Đông.
Thứ nhất, để triển khai chính sách nhất quán, Trung Quốc thiết lập một bộ máy tuyên truyền đồ sộ. Quy trình quản lý và triển khai cho thấy sự tập trung và thống nhất với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền. Hạt nhân của bộ máy tuyên truyền ở Trung Quốc là Ban Tuyên truyền trung ương Đảng nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc. Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Trung Quốc được coi là cơ quan hạt nhân chịu trách nhiệm xây dựng các chương trình tuyên truyền cả trong nước và ra nước ngoài của Trung Quốc. Các Trưởng, Phó Ban của Ban Tuyên truyền trung ương Đảng đều là những thành viên kiêm nhiệm, vừa đảm nhiệm vị trí lãnh đạo trong Ban Tuyên truyền trung ương Đảng là kênh Đảng, đồng thời vừa đảm nhiệm các vị trí như Bộ trưởng, Thứ trưởng của các bộ ngành liên quan. Điều này đã tạo ra cơ chế kép “đảng – chính quyền” trong quá trình triển khai chính sách tuyên truyền của Trung Quốc.
Xét về tuyên truyền đối ngoại, Ban Tin tức Quốc vụ viện với tên gọi khác là Ban tuyên truyền đối ngoại TW Đảng thuộc Quốc vụ viện nhưng nằm dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên truyền TW Đảng là cơ quan đầu não trong giám sát thực thi và chỉ đạo hoạt động tuyên truyền đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, những chủ thể quan trọng trong bộ máy tuyên truyền đối ngoại của Trung Quốc còn có Tổng cục Xuất bản Tin tức Trung Quốc, Văn phòng Thông tin Internet Quốc gia, Tổng cục Phát thanh – Truyền hình Quốc gia. Các cơ quan cấp Bộ phối hợp về mặt nội dung còn có Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Bộ Giáo dục, Bộ Công an và Bộ An ninh Quốc gia, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin…
Thứ hai, về cơ chế tuyên truyền, để tạo được sự thống nhất trong tuyên truyền từ trung ương xuống địa phương và từ chính phủ đến các bộ ban ngành, hay nói cách khác là cơ chế kép trong tuyên truyền, từ năm 2004, Trung Quốc thực thi cơ chế “ba tầng tin tức” và cơ chế “người phát ngôn”[8]. Cơ chế “ba tầng tin tức” là để chỉ tầng tin tức từ Quốc vụ viện, tầng tin tức từ các bộ ban ngành và tầng tin tức chính quyền địa phương; tương tự như vậy, các bộ ban ngành và các tỉnh thành của Trung Quốc đều thiết lập cơ chế “người phát ngôn” để thống nhất tiếng nói của Đảng. Hiện nay, Ban Tin tức Quốc vụ viện là cơ quan hạt nhân nắm giữ vai trò điều phối cơ chế 3 tầng và cơ chế người phát ngôn này. Chính nhờ cơ chế này mà Trung Quốc có sự thống nhất trong tuyên truyền từ Đảng cho đến chính phủ và đến các bộ ban ngành và địa phương, rồi ra đến các cơ quan nghiên cứu, truyền thông, báo chí.
Thứ ba,về các kênh tuyên truyền của Trung Quốc về Biển Đông. Hiện nay, cách thức tuyên truyền về Biển Đông của Trung Quốc rất đa dạng, nhiều cấp độ hướng đến nhiều tầng lớp và bao trùm lên quảng đại người dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Để làm được điều đó, Trung Quốc rất kiên trì và nhất quán trên mặt trận thông tin, sẵn sàng đầu tư lớn để kiểm soát các nền tảng truyền thông đại chúng. Về cách làm, Trung Quốc sử dụng nhiều nguồn phát cả chính thức và không chính thức, cả Trung Quốc và quốc tế, thông qua nhiều phương tiện, công cụ khác nhau để kể “câu chuyện của Trung Quốc” cho nhiều đối tượng khác nhau. Có thể kể đến các kênh tuyên truyền sau đây:
(1) Báo, tạp chí nghiên cứu, ấn phẩm in hiện nay vẫn là một trong những kênh tuyên truyền truyền thống phổ biến nhất của Trung Quốc. Theo thống kê sơ bộ trên trang mạng của Thư viện Quốc gia Trung Quốc (NLC), tính đến nay, Trung Quốc đang lưu trữ khoảng hơn 125,188 bài báo viết và báo cáo về Biển Đông; khoảng hơn 1,000 cuốn sách viết về Biển Đông bằng tiếng Trung và khoảng 250 đầu sách bằng tiếng Anh về Biển Đông đã được xuất bản. Số bài nghiên cứu của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông được đăng trên tạp chí cũng tăng dần qua các năm. Đặc biệt là năm 2016 trong bối cảnh vụ kiện trên Biển Đông mà phần thua thuộc về Trung Quốc, đã có tới 1751 bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí được cho là “khoa học” khác nhau. Đáng chú ý, Trung Quốc bỏ nhiều tiền để thuê học giả viết bài, mua cổ phần, tiến tới sở hữu các tờ báo có tiếng, mua chuyên mục trên các báo có uy tín … để truyền bá các thông tin mà Trung Quốc mong muốn.
(2) Phát thanh, truyền hình vẫn là một kênh được đầu tư lớn. Hiện nay ở Trung Quốc có 187 đài truyền hình và 2269 đài phát thanh và truyền hình bao phủ rộng khắp 98,88% cả nước Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư lớn đến thiết lập hệ thống truyền hình quốc tế kết hợp TV và radio thành kênh hợp nhất.
Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) là đài phát thanh truyền hình phổ biến nhất hiện tuyên truyền về Biển Đông chủ yếu trên kênh CCTV4, kênh chuyên phát sóng những chương trình truyền hình quốc tế. Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc (CRI) là kênh phát thanh tuyên truyền đối ngoại quan trọng nhất của Trung Quốc cũng được phát thanh vấn đề Biển Đông trên hai kênh FM 101 và FM 102.
(3) Kênh internet, gồm các websites, mạng xã hội như Weibo, Weixin, Twitter,… cũng trở thành những công cụ tuyên truyền hết sức nhanh chóng và tác động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân của Trung Quốc. Theo thống kê, hiện nay ở Trung Quốc người dùng di động truy cập tin tức qua Weixin chiếm 35% và qua Weibo chiếm đến 20%. Do đó, việc lan toả tin tức Biển Đông qua những trang mạng xã hội này trở nên phổ biến, không những thế, những ứng dụng mạng xã hội này ở Trung Quốc có quy trình kiểm soát thông tin bên ngoài chặt chẽ do đó tránh được những luồng tin từ nước ngoài lan toả ở Trung Quốc cũng như có sự thống nhất trong luồng thông tin tuyên truyền từ trên xuống dưới ở Trung Quốc.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tuyên truyền về yêu sách Biển Đông thông qua nhiều dạng sản phẩm, hoạt động và sự kiện như thông qua các hội thảo quốc tế, hội chợ du lịch, sự kiện thể thao, thông qua các triển lãm, cuộc thi, các chuyến thăm quan, các tác phẩm phim ảnh, nghệ thuật… Ví dụ như tại các hội thảo trong nước và quốc tế, Trung Quốc vẫn tận dụng vai trò chủ nhà, vai trò nhà tài trợ để định hình chương trình nghị sự, nắm vai trò dẫn dắt để tuyên truyền về Biển Đông theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Các phim ảnh của Trung Quốc như Điệp vụ Biển Đỏ, Abominable là những minh chứng rõ nhất về việc lồng ghép ý đồ chính trị vào các sản phẩm đại chúng. Hiện nay, Trung Quốc đang ngày càng hướng đến việc làm chủ, kiểm soát các nền tảng truyền thông hiện đại để chủ động trong các hoạt động tuyên truyền nhằm phục vụ lợi ích trên Biển Đông.
Hoa Kỳ khuyến cáo
Trung Cộng không nên lợi dụng coronavirus
để can thiệp vào vấn đề tranh chấp ở biển Đông
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, trong bối cảnh toàn thế giới đang tập trung vào việc chiến đấu với COVID-19, Trung Cộng lại tăng cường các trạm nghiên cứu và đáp phi cơ quân sự đặc biệt tại vùng biển tranh chấp.
Bà Morgan Ortagus, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao cho biết, Bộ kêu gọi Trung Cộng tiếp tục tập trung vào việc hỗ trợ các nỗ lực quốc tế để chống lại đại dịch toàn cầu, và dừng ngay việc lợi dụng sự mất tập trung hoặc dễ bị tổn thương của các quốc gia khác nhằm mở rộng các yêu sách phi pháp của họ ở Biển Đông.
Vào tuần trước, Việt Nam từng lên tiếng phản đối Bắc Kinh sau khi tuần duyên Trung Cộng cản trở và đâm chìm một tàu đánh cá của Việt Nam với 8 ngư dân trên tàu, gần khu vực quần đảo Hoàng Sa. Bộ ngoại giao cộng sản Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh bồi thường cho các ngư dân, tiến hành kỷ luật nghiêm khắc những cảnh sát có liên quan, và ngăn chặn những sự việc tương tự xảy ra trong tương lai.
Hoa Kỳ cho biết, nước này đặc biệt quan tâm đến sự việc trên, vì nó là sự việc mới nhất trong chuỗi các hành động Trung Cộng nhằm khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp, và gây bất lợi cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông. (BBT)
Ứng xử trong vấn đề tranh chấp Biển Đông: Các nước
nên là một thành viên có trách nhiệm của UNCLOS
Trong bối cảnh các tranh chấp Biển Đông diễn biến phức tạp, Trung Quốc không ngừng có các hành động vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm chủ quyền các nước khác, thì vấn đề tôn trọng và trách nhiệm thực thi nghiêm túc luật pháp quốc tế, trong đó đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982 càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Là một quốc gia gắn liền với biển, là một thành viên có trách nhiệm của UNCLOS, Việt Nam luôn đề cao mục tiêu, tôn chỉ và các quy định của UNCLOS, nỗ lực triển khai các biện pháp để thực thi UNCLOS; đồng thời kiên trì, kiên quyết yêu cầu và kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ các nghĩa vụ của UNCLOS…Ngày 16/11/1994 là dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của luật pháp quốc tế khi UNCLOS bắt đầu có hiệu lực, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các vấn đề liên quan đến biển và đại dương. Với vai trò là một công cụ pháp lý toàn diện trong giải quyết, xử lý các vấn đề về biển, UNCLOS – “Hiến pháp của đại dương” – đã được vận dụng hiệu quả để giải quyết nhiều tranh chấp, bất đồng trên biển, đồng thời mở ra nhiều cơ hội hợp tác cho các quốc gia trong các vấn đề liên quan đến biển và đại dương.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều lợi ích gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng UNCLOS. Sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong 107 nước đầu tiên ký và sớm tiến hành thủ tục phê chuẩn. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về việc phê chuẩn UNCLOS. Ngày 14/7/1994, Việt Nam đã nộp văn kiện phê chuẩn cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Do vậy, ngày 16/11/1994 khi UNCLOS bắt đầu có hiệu lực cũng đồng thời là ngày văn kiện này có hiệu lực đối với Việt Nam.
Tiếp đó, Việt Nam đã gia nhập một số điều ước quốc tế để thực thi UNCLOS như Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của UNCLOS, Hiệp định thực thi các quy định của UNCLOS về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa (có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ tháng 01/2019); gia nhập một số văn kiện pháp lý có liên quan đến khai thác và sử dụng biển trong khuôn khổ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) như Hiệp định việc biện pháp quốc gia có cảng nhằm ngăn chặn, chống lại khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định của FAO, trong khuôn khổ Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) như Công ước về tạo thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế ngày 09/4/1965, Công ước về tấn trọng tải ngày 23/6/1969, Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển ngày 01/11/1974 và các Nghị định thư liên quan…
Là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nói chung và của UNCLOS nói riêng, Việt Nam luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của UNCLOS, đồng thời có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước, như đã khẳng định tại Nghị quyết phê chuẩn UNCLOS: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị sự quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Việt Nam từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về công tác quản lý và sử dụng biển trên cơ sở phù hợp với UNCLOS, góp phần thực hiện hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên có trách nhiệm của UNCLOS. Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với quan điểm nhất quán là quản lý, khai thác đi đôi với bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, làm cho dân giàu, nước mạnh, Đảng đã xây dựng tầm nhìn và ban hành nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo thể hiện qua các văn kiện Đại hội của Đảng. Đây là cơ sở để các cơ quan Nhà nước thể chế hoá các chính sách của Đảng nhằm quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng biển. Trước hết và quan trọng nhất là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” được ban hành tại Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X và “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” ra đời trong bối cảnh Việt Nam kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng thông qua thực hiện các hiệp định đa phương, song phương góp phần tạo ra “thế” và “lực” mới cho đất nước. Với nhận định “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”, “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chiến lược đề ra 5 lĩnh vực ưu tiên phát triển là khai thác, chế biến dầu khí; khai thác và chế biển hải sản; phát triển kinh tế hàng hải; phát triển du lịch và nghỉ dưỡng biển; tăng cường xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp. Đồng thời, Chiến lược cũng định hướng xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo.
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã cho thấy các mục tiêu Chiến lược đề ra cơ bản được thực hiện tốt, nền kinh tế biển và ven biển Việt Nam tăng trưởng tích cực, đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân, nhận thức của người dân về tầm quan trọng của biển được nâng lên rõ rệt. Trên cơ sở đó, phù hợp với bối cảnh mới, “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” đã được thông qua tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” khẳng định những quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chủ trương phát triển mạnh mẽ kinh tế biển đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên biển; đồng thời đề ra những mục tiêu mới với những giải pháp tổng thể, chiến lược. Theo đó, đến năm 2030 Việt Nam sẽ trở thành quốc gia biển mạnh, hình thành văn hóa sinh thái biển, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, với những mục tiêu cụ thể là các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển; đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng, thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hóa về biển, đảo; ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển, tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương; quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực… Để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược, Chính phủ Việt Nam đang xây dựng Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW và dự kiến ban hành Kế hoạch vào năm 2019.
Nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển phù hợp với UNCLOS, phục vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhiều luật chuyên ngành về biển và các lĩnh vực kinh tế biển đã được ban hành. Trong đó, đáng chú ý là Luật Dầu khí sửa đổi các năm 2008 và 2005 (sửa đổi Luật Dầu khí 1993) quy định về hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí trong các vùng biển Việt Nam và công tác quản lý hoạt động dầu khí; Luật Bảo vệ môi trường 2014 (thay thế Luật Bảo vệ môi trường 1993 và 2005) quy định về hoạt động bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường biển, hải đảo; Luật Biên giới quốc gia 2003; Luật Thủy sản 2017 (thay thế Luật Thủy sản 2003) quy định các biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản trong vùng biển Việt Nam và khai thác thủy sản ngoài vùng biển Việt Nam, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp; Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2015 (thay thế Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005) điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 quy định các cơ chế, chính sách trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, ứng phó sự cố tràn dầu và hóa chất độc trên biển; Luật Quy hoạch 2017 quy định việc lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, thực hiện, đánh giá, điều chỉnh quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia, trong đó gồm quy hoạch không gian biển quốc gia; Luật Cảnh sát biển Việt Nam 2018 quy định về chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, bảo vệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên biển; đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn trên biển, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn và tham gia khắc phục sự cố môi trường biển.
Để triển khai hiệu quả các văn bản luật nêu trên, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo điều hành đã được ban hành. Có thể kể đến Nghị định số 61/2019/NĐ-CP ngày 10/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Nghị định số 29/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản trong đó có quy định về các biện pháp phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản; Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 20/5/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định; Nghị định số 41/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 về việc cấp phép cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam; Nghị định số 30/2017/NĐ-CP ngày 21/3/2017 quy định nguyên tắc tổ chức hoạt động ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm, cứu nạn; Quyết định số 02/2013/QĐ-TTg ngày 14/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu; Quyết định số 780/QĐ-TTg ngày 23/10/1996 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn…
Việc trở thành thành viên UNCLOS đòi hỏi Việt Nam phải có một đạo luật riêng và tổng thể về biển. Trong bối cảnh đó, ngày 21/6/2012, Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013. Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của UNCLOS và pháp luật quốc tế. Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều quy định nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; hợp tác quốc tế về biển; các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển.
Đây là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến biển nói riêng. Với việc thông qua Luật Biển Việt Nam, lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng UNCLOS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của mình. Đồng thời, qua đó Việt Nam đã chuyển đi thông điệp Việt Nam tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS, phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Việt Nam tiến hành giải quyết tranh chấp và xử lý các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Chủ trương giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên biển thông qua các biện pháp hòa bình được tuyên bố trong Nghị quyết phê chuẩn và văn kiện phê chuẩn UNCLOS. Tại Khoản 3 Điều 4 Luật Biển Việt Nam 2012, Nhà nước Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với UNCLOS, pháp luật và thực tiễn quốc tế. Trên cơ sở các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký với các nước láng giềng một số điều ước quốc tế về phân định biển. Cụ thể, với Campuchia, Việt Nam đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử ngày 07/7/1982 (có hiệu lực kể từ ngày 07/7/1982); với Thái Lan, Việt Nam đã ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển trong Vịnh Thái Lan ngày 09/8/1997 (có hiệu lực kể từ ngày 27/02/1998); với Trung Quốc, Hiệp định về phân định lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 (có hiệu lực kể từ ngày 30/6/2004); với Indonesia, Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa ngày 26/6/2003 (có hiệu lực kể từ ngày 29/5/2007). Hiện nay, Việt Nam đang tích cực thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và đã trải qua 11 vòng đàm phán với Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc cũng đã tiến hành 8 vòng đàm phán Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển, 13 vòng đàm phán Nhóm công tác về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt Nam – Trung Quốc. Việt Nam cũng tiến hành đàm phán, đối thoại với các quốc gia ven biển khác.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định tại Điều 76 UNCLOS, Việt Nam đã xây dựng và đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS) Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa, theo đó, xác định phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở Biển Đông; báo cáo chung với Malaysia về ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Nam Việt Nam – Malaysia theo đúng thời hạn quy định của Liên hợp quốc. Trong các ngày 27 và 28/8/2019, Việt Nam đã trình bày hai bản Báo cáo này tại CLCS, đồng thời đề nghị CLCS sớm thành lập các Tiểu ban để xem xét trên cơ sở phù hợp với các quy định của UNCLOS cũng như Quy tắc hoạt động của CLCS.
Liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam luôn kiên trì yêu cầu tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, coi đây là cơ sở cho việc giải quyết bất đồng giữa các bên. Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN và giữa ASEAN với Trung Quốc, trong đó quan trọng nhất là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông ngày 04/11/2002 (DOC)
cũng như Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông. Phù hợp với các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã và đang thực hiện có hiệu quả công tác cứu hộ, cứu nạn trên biển, hỗ trợ ngư dân. Việt Nam đã trao đổi với các nước liên quan để tàu cá Việt Nam vào tránh trú bão trong vùng biển các nước và kịp thời tiến hành tìm kiếm, cứu nạn đối với ngư dân Việt Nam và ngư dân nước ngoài gặp nạn trên biển trên tinh thần nhân đạo. Để nâng cao hiệu quả của công tác này, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện bộ máy về ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, trong đó có việc thành lập và kiện toàn tổ chức của Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
Trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức tạp trên Biển Đông hiện nay, Việt Nam kiên trì quan điểm tôn trọng và tuân thủ đầy đủ UNCLOS, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không có những hành động diễn giải sai trái hay cố tình hạ thấp ý nghĩa, vai trò của Công ước. Bất cứ yêu sách nào về biển cũng phải được xây dựng trên cơ sở và trong phạm vi cho phép của UNCLOS. Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các bên liên quan cần giải quyết thông qua thương lượng hoặc các biện pháp hòa bình khác, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Trong khi chưa giải quyết được bất đồng, các bên cần tôn trọng và thực hiện đầy đủ DOC, kiềm chế, không thực hiện các hoạt động đơn phương có thể làm phức tạp tình hình và gia tăng căng thẳng, đe dọa tới hòa bình và ổn định trong khu vực; tham gia đàm phán một cách thiện chí, xây dựng nhằm sớm đạt một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu lực, thực chất và phù hợp với các quy định của UNCLOS.
Đối với các vụ việc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, Việt Nam kiên trì, kiên quyết nêu các quan điểm trên, đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó gồm UNCLOS, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường đúng đắn, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam tiếp tục thực thi và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Về bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước tạo thuận lợi giao thông hàng hải quốc tế. Việt Nam phối hợp với Tổ chức Di trú quốc tế (IMO) thực hiện Dự án Xây dựng năng lực và chiến dịch truyền thông cộng đồng chống đưa người di cư trái phép tại Việt Nam. Việt Nam cũng chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào các hội thảo, hội nghị, diễn đàn an ninh chính trị quốc tế, đặc biệt là cơ chế trong ASEAN. Thực hiện nghĩa thành viên của Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO), Vịệt Nam đã thành lập Ủy ban Thủy đạc Việt Nam (VHO) để triển khai nhiều hoạt động quốc tế, mang lại nhiều kết quả thiết thực.
Việt Nam tham gia và có những đóng góp tích cực trong khuôn khổ các cơ chế được thành lập theo UNCLOS. Kể từ khi trở thành thành viên UNCLOS, Việt Nam đã tích cực hoạt động tại các cơ chế được thành lập theo UNCLOS. Hàng năm, Việt Nam đều tích cực tham gia thảo luận cùng với các nước về Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về “Đại dương và Luật Biển”; tham gia tiến trình tư vấn không chính thức của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về đại dương và Luật biển. Là thành viên Hội đồng Cơ quan quyền lực quốc tế đáy đại dương (ISA) của hai nhiệm kỳ (2007-2011 và 2011-2014), Việt Nam đã có những đóng góp trong xây dựng các văn kiện của ISA. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham dự, chia sẻ thông tin và lập trường về tình hình Biển Đông tại các Hội nghị thường niên các quốc gia thành viên UNCLOS, ủng hộ hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS), tham gia tích cực vào hoạt động của Nhóm Công tác về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (BBNJ), trong đó có tiến trình đàm phán xây dựng văn kiện pháp lý về BBNJ trong khuôn khổ UNCLOS; đề cao vai trò của Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS) trong việc bảo vệ các quy định của UNCLOS; đồng thời đóng góp đầy đủ niên liễm cho hoạt động của các cơ quan được thành lập theo UNCLOS. Tại các diễn đàn quốc tế liên quan, Việt Nam luôn kêu gọi các quốc gia phải tuân thủ các quy định của UNCLOS, sử dụng biển một cách hòa bình, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia khác ở trong và ngoài khu vực.
0 comments