Tin Biển Đông – 17/12/2019
Máy bay chiến đấu Trung Quốc
diễn tập trinh sát trên Biển Đông
Global Times, tức Hoàn Cầu Thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho biết một đơn vị không hải quân thuộc Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã hoàn tất một cuộc diễn tập trinh sát cảnh báo sớm dài ngày, trong đó những người tham gia xác định được hơn 10 loại tín hiệu vô tuyến của ‘kẻ thù’.
Ông Yan Liang, Tư lệnh của một sư đoàn xác định các cuộc tập trận cảnh báo sớm đã được tiến hành hồi năm ngoái, Ông nói:
“Khác với cuộc diễn tâp năm ngoái, cuộc tập trận năm nay có thời gian dài hơn nhiều, và được đặt vào vị thế tác chiến ngay từ đầu, đồng thời tập trung huấn luyện vào ban đêm.
Global Times nói rằng các cuộc tập trận như thế này liên tục thách thức các giới hạn của nhân lực và trang thiết bị, đồng thời nâng cao khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc trong các tình huống khẩn cấp.
Cuộc tập trận được tổ chức từ giữa tháng 11 và có sự tham gia của hai nhóm máy bay chiến đấu. Trong cuộc tập trận, nhóm máy bay chiến đấu thứ nhất chia sẻ tin tình báo với nhóm chiến đấu cơ thứ hai, sau đó nhóm nhận tin tình báo được phái đi tìm kiếm và thu thập thông tin về một nhóm mục tiêu trên biển, theo bản tin.
Một sĩ quan giấu tên từ cùng một sư đoàn cho biết, không quân Trung Quốc đã chuyển đổi cách tiếp cận của họ, từ thụ động sang chủ động. Ông này nói rằng hiện nay “hai chữ được dùng thường xuyên nhất trong các cuộc diễn tập của chúng tôi là ‘khó khăn’ và ‘tình báo’. Chúng tôi đã lên kế hoạch chi tiết để tránh những rủi ro và nguy hiểm trong mỗi cuộc tập trận.
Theo ông Zhou Chenming, một chuyên gia quân sự có trụ sở tại Bắc Kinh thì cuộc tập trận lần này trái ngược hẳn với các cuộc tập trận trước đó, khi máy bay chiến đấu được thông báo trước về các ‘đối thủ’ và những hiểm nguy mà họ có thể gặp phải.
Ông Zhou nói đây là một trong những thay đổi cần thiết đối với không quân Trung Quốc, vốn đã hoàn thành giai đoạn hiện đại hóa ban đầu, đòi hỏi phải tăng cường khả năng chiến đấu trong tình huống đối đầu gần giống với thực tế, theo ông.
Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chủ yếu hoạt động ở Biển Đông.
Hoa Kỳ đã thực hiện ít nhất 85 cuộc tập trận quân sự chung với các đồng minh ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương trong năm 2019 giữa lúc Washington đang tìm cách chống trả sự trỗi dậy của Bắc Kinh, đặc biệt ở Biển Đông, theo Sáng kiến Tình hình Chiến lược Biển Đông, một think-tank thuộc Đại học Bắc Kinh.
Tổ chức tư vấn chiến lược và chính sách này nhận định:
“Thông qua các cuộc tập trận đó, Hoa Kỳ đang tăng cường khả năng tương tác với các quốc gia khác và tăng cường sự hiện diện quân sự để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong tư cách một cường quốc hàng hải”
Vẫn theo think-tank của Trung Quốc thì trong thời gian sắp tới, có khả năng Hoa Kỳ sẽ tổ chức thêm nhiều cuộc tập trận để nâng cáo các khả năng chiến đấu cốt lõi nhằm đối phó với điều mà họ tin là những mối đe dọa đối với an ninh khu vực.”
Tàu sân bay Sơn Đông do TQ chế tạo
chính thức đi vào hoạt động
Tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc chế tạo trong nước có tên là Sơn Đông (Shandong) đã được chuyển giao cho hải quân hôm 17/12, hãng tin Reuters dẫn truyền thông nhà nước Trung Quốc loan tin.
Chiếc hàng không mẫu hạm đã được Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức lập biên chế tại thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam vào hôm 17/12, theo trang South China Morning Post.
Việc tàu sân bay Sơn Đông được đưa vào hoạt động là một cột mốc quan trọng trong nỗ lực xây dựng sức mạnh hải quân của Trung Quốc, điều mà các nước láng giềng và Mỹ vẫn theo dõi với ánh mắt hoài nghi.
Đài truyền hình nhà nước CCTV cho hay buổi lễ khánh thành có sự tham dự của các quan chức từ Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc, cơ quan giám sát khu vực Biển Đông đầy nhạy cảm và mang tính chiến lược.
Ông Tập chủ trì lễ duyệt binh danh dự và gặp gỡ các nhân viên phục vụ trên tàu chiến. Các quan chức cấp cao khác, bao gồm Phó Thủ tướng Lưu Hạc (Liu He); ông Đinh Tiết Tường (Xu Xuexiang), Chánh văn phòng Chủ tịch Tập Cận Bình; ông Hà Lập Phong (He Lifeng), nhà hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc; ông Lý Tác Thành (Li Zuocheng), Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, cũng có mặt tại buổi lễ.
Vào tháng trước, con tàu trước đây được gọi là tàu Type 001A, đã đi qua eo biển Đài Loan ‘để thực hiện các thử nghiệm khoa học và đào tạo’ và sau đó hướng ra Biển Đông.
Tàu sân bay Sơn Đông trước đây dự kiến được đưa vào vận hành chính thức vào tháng 4 vừa rồi. Nhưng giai đoạn thử nghiệm của nó mất nhiều thời gian hơn so với dự tính, khiến một số nhà quan sát quân sự nghĩ rằng con tàu đã gặp sự cố kỹ thuật, theo the South China Morning Post.
Tàu sân bay Sơn Đông đã bắt đầu chạy thử nghiệm trên biển đầu tiên vào tháng 5/2018.
Năm 2012, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc có tên là Liêu Ninh, đã đi vào hoạt động sau khi được trang bị thêm và hoàn thành các thử nghiệm trên biển.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản
bất ngờ chỉ trích hành vi TQ trên Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Taro Kono chỉ trích hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông và các vùng biển gần Nhật Bản, vài ngày trước khi đến thăm Bắc Kinh.
“Trung Quốc thực hiện các nỗ lực đơn phương và cưỡng chế nhằm thay đổi hiện trạng dựa trên các khẳng định riêng của mình không phù hợp với trật tự quốc tế hiện tại”, ông Kono nói hôm 15/12 tại Diễn đàn Doha, một hội nghị quốc tế ở Qatar.
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho biết nước này “quan ngại về sự tăng cường nhanh chóng sức mạnh quân sự không minh bạch của Trung Quốc, bao gồm khả năng hạt nhân và tên lửa”.
“Quy tắc luật lệ, điều quan trọng thiết yếu đối với ổn định và an ninh toàn cầu, là một giá trị chung của cộng đồng quốc tế, bao gồm Trung Quốc” – ông nói. Bộ trưởng Kono khẳng định các nước không được phép mở rộng ảnh hưởng bằng vũ lực và “những kẻ khiêu khích cần phải trả giá”.
Chuyên gia quan hệ quốc tế Hiromi Murakami cho biết “khá ngạc nhiên” về giọng điệu trong bình luận của bộ trưởng. “Bình luận xuất hiện quá sớm sau các cuộc đối thoại an ninh giữa Nhật và Ấn Độ, tôi chỉ có thể thấy điều này là đang gửi lời nhắc nhở Trung Quốc không thể làm bất cứ thứ gì họ muốn, bất cứ nơi nào họ muốn” – bà nhắc đến việc Nhật Bản và Ấn Độ hồi tháng trước đồng ý thúc đẩy hợp tác an ninh song phương.
Truyền thông nhà nước Trung Quốc chưa bình luận về bài phát biểu của ông Kono, nhưng các nhà phân tích cho rằng Bắc Kinh chắc chắn sẽ theo dõi chặt chẽ. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận bình dự định đến thăm Nhật Bản tháng 4/2020.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản trong chuyến thăm đến Bắc Kinh hôm 18/12 dự kiến sẽ đặt vấn đề về Sáng kiến Vành đai và con đường, bên cạnh đó là vấn đề Triều Tiên, và khả năng thiết lập đường dây nóng quân sự để ngăn tai nạn hàng không và hàng hải.
Ý đồ của TQ khi tìm cách gia tăng các hoạt động
thăm dò, khai thác dầu khí trái phép ở Biển Đông
Để đáp ứng nguồn cung về nguồn năng lượng trong nước, cũng như giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài, Trung Quốc đã chủ động thúc đẩy các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trái phép ở Biển Đông. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng muốn thông qua hoạt động trên để gây sức ép, từng bước khẳng định “chủ quyền” trên Biển Đông.
Bắc Kinh đang khát năng lượng
Hiện nay, xét về mặt tiêu thụ năng lượng, Trung Quốc đang đứng hàng thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Cơn khát năng lượng ngày càng tăng của Trung Quốc là hậu quả của sự bùng nổ kinh tế kéo dài suốt 30 năm qua, đi kèm với nó là sự mở rộng ngoại thương, gia tăng thu nhập, gia tăng dân số và đô thị hoá không ngừng. Nhu cầu đối với mọi dạng năng lượng – như than đá, dầu mỏ, khí đốt, điện, nước, các dạng năng lượng khác có khả năng phục hồi và cả năng lượng hạt nhân, trở nên tăng vọt. Nhờ nguồn dự trữ lớn, hiện nay than đang là loại nhiên liệu số 1 của Trung Quốc và cung ứng 2/3 nhu cầu năng lượng của nước này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã dẫn đến nhu cầu ngày càng tăng cao, đặc biệt là dầu mỏ. Sau khi Trung Quốc quyết định mở rộng sản xuất khí đốt tự nhiên, gas có thể sẽ đóng một vai trò lớn hơn trong tương lai nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng của Bắc Kinh. Do sự phụ thuộc ngày một nhiều vào việc nhập khẩu nhiên liệu nên Chính phủ Trung Quốc đang nỗ lực rất lớn để củng cố an ninh năng lượng quốc gia. Để đáp ứng nguồn cung về năng lượng, Trung Quốc một mặt tích cực thúc đẩy thăm dò, khai thác dầu khí ở trên lục địa cũng như các vùng biển. Hiện nay Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành nước nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới và nước nhập khẩu khí đốt tự nhiên lớn thứ 2 thế giới.
Không những vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc vào mức độ thành công của Bắc Kinh trong việc đáp ứng các nhu cầu năng lượng không ngừng tăng của cả nước. Sự phụ thuộc ngày một nhiều vào việc nhập khẩu nhiên liệu đã khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy bất an và lo lắng rằng, sự gián đoạn trong quá trình cung ứng nhiên liệu hoặc sự tăng giá không thể lường trước có thể làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng. Họ lo ngại rằng, bất kỳ sự giảm tốc nào cũng có thể dẫn đến tình trạng bất ổn xã hội và đến lượt mình sự bất ổn xã hội sẽ huỷ hoại quyền lực của họ cũng như quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản. Vì lẽ đó, an ninh năng lượng được xem là có quan hệ mật thiết với sự ổn định kinh tế và chính trị, đồng thời được coi là nhân tố chủ chốt trong việc duy trì vai trò lãnh đạo và giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Trong bối cảnh đó, vấn đề cung ứng nhiên liệu được đặt lên hàng đầu trong chương trình an ninh quốc gia Trung Quốc.
Trước tình hình trên, Trung Quốc đã đề xuất chương trình cải cách tổng thể trong nước và cả chiến lược an ninh nhập khẩu toàn cầu. Mục đích của Bắc Kinh là giữ cho sản xuất tiếp tục được duy trì tại các mỏ dầu truyền thống ở khu vực Đông Bắc, đồng thời mở rộng sản xuất tại miền Tây Trung Quốc. Ưu tiên hàng đầu được dành cho việc phát triển các mỏ dầu ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Biện pháp ứng phó
Theo thống kê, mức tiêu hao năng lượng để tạo ra GDP của Trung Quốc chủ yếu dựa vào đầu tư vốn, nhân lực và vật lực. Tiêu hao năng lượng cho một đơn vị GDP của Trung Quốc luôn duy trì ở mức cao gấp 3-4 lần bình quân của thế giới. Cơn khát năng lượng ngày càng tăng của Trung Quốc là hậu quả của sự bùng nổ kinh tế, sự mở rộng ngoại thương, gia tăng thu nhập, gia tăng dân số, mức tiêu thụ năng lượng tính theo đầu người tăng và đô thị hoá không ngừng… Theo IEA, lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng gấp 5 lần (từ 2 triệu thùng dầu mỗi ngày lên gần 11 triệu thùng dầu mỗi ngày) vào năm 2030. Thiếu hụt dầu mỏ và khí đốt sẽ trở thành những thiếu hụt nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến an ninh năng lượng của Trung Quốc. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ buộc phải nhập khẩu 80% lượng dầu mỏ tiêu dùng trong nước. Trung Quốc đang thực hiện giải pháp bảo đảm nguồn năng lượng tiêu dùng trong nước:
Thứ nhất, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Việc sử dụng điện năng hiệu quả, thân thiện với môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống để đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững là vô cùng quan trọng. Vấn đề tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng sạch, thân thiện với môi trường đang là mục tiêu ưu tiên hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Trung Quốc đã tiến hành một loạt biện pháp tiết kiệm năng lượng để hạn chế sự gia tăng nhập khẩu năng lượng: thực hiện nghiêm ngặt tiết kiệm dầu mỏ trong nước, khuyến khích sản xuất các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, các sản phẩm công nghệ mới ít tiêu hao năng lượng; cử các chuyên gia đi học tập kinh nghiệm tiên tiến nước ngoài… Thực hiện các công xưởng luân phiên ngừng sản xuất, tránh căng thẳng về điện trong giờ cao điểm, kêu gọi toàn dân tiết kiệm và xây dựng mô hình xã hội tiết kiệm năng lượng.
Thứ hai, đa dạng hóa nguồn cung, chú trọng phát triển các nguồn năng lượng mới thay thế. Cùng với tiết kiệm năng lượng, chủ động đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất năng lượng truyền thống và đa dạng hóa các nguồn năng lượng mới thay thế: năng lượng hạt nhân và phát triển năng lượng tái tạo (năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng đại dương…). Phát triển năng lượng tái sinh và các nguồn năng lượng thay thế khác đang là một trong những trọng tâm của chiến lược an ninh năng lượng. Chiến lược năng lượng của Trung Quốc trong tương lai có sự chuyển hướng đầu tư mạnh mẽ sang các dạng năng lượng tái tạo và năng lượng sạch (gồm thủy điện, năng lượng gió, điện mặt trời, năng lượng sinh học). Chiến lược này được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu (2005-2010): Năng lượng tái tạo đóng vai trò phụ trợ; Giai đoạn hai (2010-2020): Nguồn năng lượng thay thế dần dần cho các loại năng lượng khác; Giai đoạn ba (2020-2030): Năng lượng tái tạo sẽ vươn lên chiếm lĩnh.
Thứ ba, thu hút đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ trong ngành năng lượng, trong đó phát triển năng lượng tái tạo được coi là một trong những giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng và thân thiện với môi trường, giúp nguồn cung điện bớt phụ thuộc vào các nguồn truyền thống. Tuy nhiên, vốn đầu tư vào dự án năng lượng tái tạo không hề nhỏ. Giá điện từ các nguồn năng lượng tái tạo có sự chênh lệch khá lớn với giá điện từ các nguồn truyền thống. Vì vậy, thu hút vốn đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo rất khó khăn, cần có sự “chung tay” của các nguồn vốn đầu tư tư nhân cộng với “sức đẩy” từ sự trợ giúp của Chính phủ.
Thứ tư, đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng mới, được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Trung Quốc (cùng với Hàn Quốc và Nhật Bản) trong gói kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu đều dành ưu tiên cao cho tăng trưởng xanh (cơ cấu của Trung Quốc là 35% so với của Hàn Quốc lên đến 80%). Trong đó, đầu tư tập trung cho lĩnh vực năng lượng sạch, giao thông thân thiện môi trường, đô thị hóa bền vững, nông nghiệp sinh thái, du lịch sinh thái, công nghiệp văn hóa, xử lý chất thải, thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh. Trung Quốc tiến hành những cuộc cách mạng sạch, cách mạng xanh, cách mạng công nghệ cao… Trung Quốc cơ cấu lại 10 ngành, nghề chủ chốt (thép, ôtô, xi măng…) nhằm tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hiện đại hóa các ngành chủ chốt để tiếp cận công nghệ xanh. Với ngành ôtô, Trung Quốc chuyển hướng chiến lược sản xuất ôtô tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới; Với ngành thép, khống chế sản lượng ở mức 300 triệu tấn/năm và loại bỏ công nghệ lạc hậu. Trong “Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), Trung Quốc coi phát triển “xanh” là một trong những ưu tiên hàng đầu. Chiến lược tăng trưởng xanh là giải pháp để Trung Quốc và các quốc gia vượt qua các thách thức nghiêm trọng của suy thoái kinh tế, bùng nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, đa dạng sinh học suy giảm, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, mô hình tăng trưởng xanh, bền vững là mô hình được Trung Quốc và mọi quốc gia hướng tới.
Một số hoạt động dầu khí phi pháp của Trung
Đầu tiên, Trung Quốc tăng cường thăm dò dầu khí ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực tranh chấp mà một số quốc gia ASEAN tuyên bố chủ quyền, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Thứ hai, Bắc Kinh sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao… để ngăn chặn các nước khai thác dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc (7/2014) chỉ trích việc Bộ Năng lượng Philippines đã gia hạn thêm một năm cho Forum Energy, một công ty dầu khí của Anh, tiến hành các hoạt động dầu khí ở khu vực Bãi Cỏ Rong (tên quốc tế là Reed Bank) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc và
Philippines cũng tuyên bố chủ quyền với bãi đá này. Trong khi đó, Bắc Kinh cũng dùng ảnh hưởng và sức mạnh của mình để gây sức ép khiến PetroVietnam buộc phải dừng khoan thăm dò với các đối tác nước ngoài ở các lô 07.03 và 136.03 hồi tháng 3/2018 và 7/2017. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nhiều lần ngang ngược tuyên bố: “Không có sự cho phép của Trung Quốc, việc khai thác dầu khí của bất kỳ công ty nước ngoài nào trong vùng biển dưới quyền thực thi pháp lý của Trung Quốc là phi pháp và không có giá trị”; tiếp tục nhắc lại lập luận ngang ngược rằng Trung Quốc “có chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam và các vùng biển lân cận.
Không những vậy, Trung Quốc liên tục tiến hành các hoạt động đơn phương, ngăn chặn các nước ven Biển Đông thăm dò, khai thác dầu khí. Trung Quốc thường cáo buộc các nước ASEAN có yêu sách đã xâm phạm vào vùng biển của họ và cho rằng Trung Quốc có quyền thực thi các yêu sách chống lại các nước này. Chẳng hạn vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Vào ngày 9 tháng 6, một tàu cá Trung Quốc cũng đã đâm ngang cáp khảo sát của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam. Năm 2011, Philipines đã báo cáo 7 sự cố liên quan đến sự quấy rối của Trung Quốc. Trong một trường hợp, vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Philippines yêu sách nằm cách bờ biển Palawan 250 km về phía Tây.
Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc thực hiện nhiều chủ trương, chính sách ủng hộ đối với các hoạt động phi pháp của doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, như hỗ trợ trên các phương tiện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, đưa ra chính sách ưu đãi khác thác như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính, thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển Đông, đưa ra các chính sách phát triển ngành nghề hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc khai thác phi pháp ở Biển Đông.
Thứ tư, Trung Quốc cũng đơn phương kêu gọi, mời thầu thăm dò, khai thác dầu khí ở trong vùng biển của Việt Nam. Tổng công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã công bố mời thầu 9 lô dầu khí hợp tác thăm dò khai thác trong năm 2012 với các công ty nước ngoài, tổng diện tích của khu vực này là 160.129,38 km2. Qua kiểm tra tọa độ do phía Trung Quốc công bố, các lô này nằm sâu vào thềm lục địa của Việt Nam, chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu nay. Năm 2014, CNOCC loan báo sẽ phát thông báo mời các tập đoàn nước ngoài dự cuộc đấu thầu 33 lô dầu khí, trong đó có 25 lô ở Biển Đông, tổng diện tích của khu vực này là 126.000 km2. Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam khẳng định, CNOOC đã thông báo chào thầu quốc tế tại 9 lô dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Năm 2016, CNOOC tiếp tục ra thông cáo mời thầu 18 lô dầu khí với tổng diện tích khoảng 52.257 km2, bao gồm 14 lô ở Biển Đông, 3 lô tại biển Bột Hải, 1 lô tại Biển Hoa Đông. Trong các lô dầu khí ở Biển Đông năm 2016 này có một số lô nằm gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 2017, CNOOC lại mời các công ty nước ngoài tranh thầu thăm dò tìm kiếm nhiên liệu hóa thạch tại 22 lô ở vùng biển phía Nam Trung Quốc. Các lô này trải dài trên một vùng biển rộng 47.270 km2, bao gồm vùng biển của Việt Nam.
Điểm mặt một số giàn khoan của Trung Quốc từng hiện diện ở Biển Đông
Giàn khoan Dầu khí Hải dương 981 (HD-981) là giàn khoan biển sâu kích cỡ lớn đầu tiên do Trung Quốc sản xuất và do Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) sở hữu. Ngày 2 tháng 5 năm 2014, giàn khoan được Trung Quốc đưa tới hoạt động trái phép tại vị trí cách đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) 17 hải lý (khoảng 30 km) về phía Nam, cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía Đông. Tiếp đến, Giàn khoan Lam Kình 1 là giàn khoan biển sâu loại nửa nổi nửa chìm lớn nhất thế giới với trọng lượng 42.000 tấn, chiều cao từ đáy đến đỉnh là 118 m, tương đương tòa nhà 37 tầng. Trong khoảng thời gian 8-9/2019, giàn khoan được Trung Quốc đưa tới hoạt động trái phép ở Biển Đông. Giàn khoan Dầu khí Hải dương 982 là giàn khoan nửa nổi nửa chìm thế hệ thứ 6, được Trung Quốc mệnh danh là “đảo nhân tạo trên biển. Trung Quốc cũng đã đưa giàn khoan này ra Biển Đông tác nghiệp, do nó được thiết kế chịu đựng mọi cơn bão khắc nghiệt ở vùng biển này. Ngoài ra, còn một số giàn khoan khác như Hưng Vượng, Nam Hải 9, Nam Hải 4, Hải Dương 943, Nam Hải 01, Nam Hải 05…
Việc Trung Quốc đưa những giàn khoan trên tới hoạt động phi pháp ở Biển Đông là nhằm: (1) Trung Quốc thông qua việc triển khai các loại hình giàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông là nhằm kiểm tra, đánh giá trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và băng cháy ở Biển Đông, để tạo điều kiện thuận lợi hoạch định chính sách, biện pháp khai thác (đa phần là phi pháp) trong khu vực. (2) Bắc Kinh muốn làm chủ nguồn tài nguyên khu vực này và tạo ra sức ép sau đó sẽ khống chế tự do hàng hải, độc chiếm
ngư trường ở Biển Đông. Đây là điều hết sức nguy hiểm vì nếu họ chiếm được 3 yếu tố này chính là họ đã “làm chủ” tình hình trong khu vực. (3) Trung Quốc liên tục đưa các loại giàn khoan vào loại hiện đại và tiên tiến nhất thế giới vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho thấy Bắc Kinh đang muốn mở rộng và mặc định vùng đặc quyền, thềm lục địa từ cái mà họ tự cho mình có “chủ quyền” ở quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời với việc thể hiện rằng mình có hoạt động kinh tế ở khu vực này qua việc áp đặt giàn khoan trái phép, Trung Quốc cũng tiến hành xua một lượng lớn tàu cá ồ ạt vào đánh bắt ở vùng biển này để hợp thức hóa cho sự xâm chiếm trái phép đó. Khi tàu cá Việt Nam đánh bắt ở khu vực này thì Trung Quốc sẽ cho tàu cản trở, tấn công và lu loa lên rằng tàu cá Việt Nam vi phạm. (4) Thông qua việc triển khai các giàn khoan trên Biển Đông, Trung Quốc nhiều khả năng có ý định dùng giàn khoan dầu để từng bước giành quyền kiểm soát khu vực ngoài khơi, bước đầu là tạo một vùng kiểm soát không rõ ràng về pháp lý và chính trị rồi sau đó là chiếm lợi thế về vị trí địa lý trong khu vực. (5) Triển khai gian khoan ra Biển Đông là bước đi “chiến lược” của Trung Quốc tăng cường các hoạt động khiêu khích, quấy rối dựa trên các chiêu bài núp bóng dân thường; Gây ảnh hưởng trên dư luận quốc tế, ngăn cản các nước lân cận theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc; Lợi dụng luật pháp quốc tế và Trung Quốc nhằm khẳng định quyền lợi của nước này đồng thời phủ nhận hay thay đổi các điều khoản không có lợi trong tranh chấp ở Biển Đông. (6) Hành động đưa giàn khoan vào Biển Đông đã một lần nữa khẳng định mưu đồ giành quyền kiểm soát vùng biển chiến lược này của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Việt Nam hy vọng Trung Quốc kiềm chế
ở Biển Đông trong năm 2020
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Quốc Dũng mới đây lên tiếng bày tỏ hy vọng của Việt Nam rằng trong năm 2020 Trung Quốc sẽ kiềm chế không có các hành động vi phạm ở Biển Đông như năm 2019.
Theo Reuters, ông Dũng phát biểu điều này tại một buổi thuyết giảng ở Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore.
Trong nhiều tuần từ giữa tháng 6 đến khoảng cuối tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp những phản đối của Việt Nam và lên án của quốc tế.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng nói “những gì mà Trung Quốc làm là rất đáng báo động và cũng là một dạng đe dọa không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả với các quốc gia khác, những nước nhìn thấy khả năng bị đe dọa trong tương lai”.
Ông Dũng nói, trong vai trò là Chủ tịch luân phiên của ASEAN 2020, Việt Nam hy vọng Trung Quốc sẽ kiềm chế các hành động của mình.
Trung Quốc là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc 9 đoạn nước này tự vẽ ra trên biển.
Ngoài Trung Quốc, một số nước ASEAN khác bao gồm Việt Nam cũng đòi chủ quyền ở khu vực này. Tuy nhiên trong các tuyên bố chung của mình, ASEAN từ trước đến nay chưa bao giờ chỉ đích danh Trung Quốc là người leo thang căng thẳng ở Biển Đông.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng nói rằng không phải các nước ASEAN ủng hộ các hành động của Trung Quốc mà chỉ là các nước phản đối theo các cách khác nhau.
Cũng tin liên quan, Trung Quốc hôm 17/12 đã bàn giao tàu sân bay thứ nhì của nước này cho hải quân trong một buổi lễ có sự tham dự của Chủ tịch Tập Cận Bình ở tỉnh Hải Nam.
Tàu mới có tên Sơn Đông là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự đóng.
Chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc là tàu Liêu Ninh, được bàn giao vào năm 2012. Tàu Liêu Ninh do Liên Xô đóng và được Trung Quốc mua lại từ Ukraina hồi năm 1998. Tàu sau đó được chuyển về cảng Đại Liên và tân trang lại.
Truyền hình Trung Quốc (CCTV) hôm 17/12 tường thuật buổi lễ bàn giao tàu Sơn Đông cho biết, tham dự buổi lễ có các quan chức thuộc Bộ tư lệnh Quân khu miền Nam, là đơn vị trực tiếp giám sát tình hình Biển Đông.
Tàu Sơn Đông, trước đó được đặt ký hiệu là 001A, đã thực hiện những chuyến chạy thử và tập dượt ở eo biển Đài Loan, rồi sau đó ra khu vực Biển Đông hồi tháng trước.
Tàu Sơn Đông có khả năng chứa tới 36 chiếc máy bay chiến đấu J-15, trong khi tàu Liêu Ninh chỉ có sức chứa là 24 chiếc.
0 comments