Tin Biển Đông – 22/10/2019
Căng thẳng Bãi Tư Chính và cộng đồng quốc tế
Carl Thayer
Đã 3 tháng rưỡi trôi qua kể từ khi tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc cùng đội tàu hộ tống vào trái phép vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam để thực hiện khảo sát. Hải Dương 8 và đội tàu hộ tống đến lúc này đã mở rộng phạm vi hoạt động ra xa hơn về phía bắc dọc theo bờ biển Việt Nam.
Việt Nam tiếp tục phản ứng lại hành động xâm lấn của Trung Quốc một cách kiềm chế. Đầu tiên, Việt Nam giữ im lặng trong suốt gần 2 tuần lễ sau khi Hải Dương 8 vào vùng EEZ. Đến ngày 17/7, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng kêu gọi “các nước liên quan và cộng đồng quốc tế làm việc cùng nhau để cùng bảo vệ và duy trì trật tự, hòa bình và an ninh trên Biển Đông”.
Bài viết này nhìn lại phản ứng của cộng đồng quốc tế trước lời kêu gọi của Việt Nam.
Vào tháng 7, Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra một báo cáo ngắn 6 trang về căng thẳng ở Bãi Tư Chính. Báo cáo này cho biết “Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao và nhiều lần liên hệ” với Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cùng các giới chức Trung Quốc có liên quan ở Bắc Kinh, bao gồm cả Ủy ban Trung ương Đảng về đối ngoại phụ trách an ninh và quốc phòng. Đến giữa tháng 10, truyền thông Việt Nam cho biết đã có 40 liên lạc như vậy được gửi tới phía Trung Quốc.
Báo cáo của phía Việt Nam yêu cầu các cơ quan ngoại giao của Việt Nam phải đưa vấn đề căng thẳng ở Bãi Tư Chính đến các đối tác ở Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Nam Hàn, Pháp, Đức, Anh và Liên minh Châu Âu ở New York.
Hoa Kỳ là nước đầu tiên lên tiếng về căng thẳng Bãi Tư Chính. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã ra các thông cáo báo chí với lời lẽ mạnh mẽ. Vào ngày 20/7, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cáo buộc Trung Quốc “lặp lại các hành động gây hấn” nhắm vào các hoạt động khai thác dầu khí và làm ảnh hưởng tới thị trường năng lượng thế giới. Hoa Kỳ yêu cầu “Trung Quốc phải ngừng thái độ bắt nạt và kiềm chế không có các hành động gây hấn, gây mất ổn định”.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra thông cáo thứ hai vào ngày 22/8. Thông cáo khá cụ thể trong việc chỉ đích danh tên Trung Quốc: “Việc triển khai tàu khảo sát của chính phủ Trung Quốc, cùng với đội tàu hộ tống có vũ trang, vào vùng nước ngoài khơi Việt Nam gần Bãi Tư Chính vào ngày 13/8 là một hành động leo thang từ phía Bắc Kinh trong nỗ lực nhằm đe dọa các nước đòi chủ quyền khác không được khai thác nguồn tài nguyên ở Biển Đông”. Thông cáo cũng cáo buộc Trung Quốc đã phá hoại “hòa bình và an ninh trong khu vực” bằng việc ngăn cản các quốc gia Đông Nam Á tiếp cận với nguồn tài nguyên dầu
khí được ước tính lên đến 2,5 nghìn tỷ đô la. Cuối cùng, tuyên bố kết luận là “Hoa Kỳ cam kết đảm bảo việc sản xuất dầu khí không bị gián đoạn cho thị trường toàn cầu”.
Quan ngại của Hoa Kỳ về hành động bắt nạt và đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng nhận được sự chia sẻ từ các đồng minh Nhật Bản, Australia. Tuy nhiên, các nước này đã tránh nói trực tiếp trong các phát biểu của mình và không chỉ đích danh tên Trung Quốc. Ví dụ, tuyên bố của chung các bộ trưởng được công bố sau Đối thoại An Ninh Ba bên Mỹ, Australia, Nhật Bản ở Bangkok hôm 2/8 đã dành 3 trong 6 đoạn nói về Biển Đông mà không nhắc tên Trung Quốc.
Ở điểm thứ 10, các bộ trưởng bày tỏ “quan ngại sâu sắc về việc triển khai các vũ khí hiện đại ra các thực thể đang tranh chấp… lên tiếng phản đối mạnh mẽ đối với các hành động lấn ép đơn phương có thể làm thay đổi hiện trạng và làm tăng căng thẳng….(và) bày tỏ quan ngại về các thông tin về các hoạt động làm gián đoạn những dự án dầu khí lâu dài ở Biển Đông”. Ở điểm thứ 12, các bộ trưởng kêu gọi Bộ Quy tắc về ứng xử giữa Trung Quốc và ASEAN không được có định kiến với quyền lợi của các bên thứ ba hoặc quyền của các quốc gia theo luật quốc tế.
Ngay sau Đối thoại An ninh Ba bên, bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao Mỹ và Australia gặp nhau ở Sydney hôm 4/8 cho tham vấn AUSMIN hàng năm. Tuyên bố chung được công bố sau đó cũng tương tự như bản tuyên bố ở Đối thoại An ninh Ba bên.
Thủ tướng Australia Scott Morrison có chuyến thăm chính thức đến Việt Nam từ ngày 22 đến 24 tháng 8 theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Tuyên bố chung công bố sau cuộc gặp nhắc lại công thức chung của ASEAN về Biển Đông. Đáng chú ý, tuyên bố đã phá vỡ những gì vẫn được đưa ra trong các tuyên bố song phương trước đó bằng cách bày tỏ “quan ngại về các hoạt động gây gián đoạn các dự án dầu khí ở Biển Đông… tầm quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS và kêu gọi các bên tôn trọng và thực hiện các quyết định được đưa ra theo các cơ chế này… (và) đối với bất cứ Bộ Quy tắc về ứng xử nào giữa ASEAN và Trung Quốc cũng phải tuân theo luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, mà không gây định kiến với quyền lợi của các bên thứ ba hoặc các quyền của các quốc gia theo luật quốc tế, ủng hộ kiến trúc khu vực hiện có”.
Vào ngày 28/8, Đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh có tuyên bố gồm 4 đoạn về vấn đề Biển Đông. Tuyên bố viết rằng những hành động đơn phương gần đây ở Biển Đông cho thấy “một đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế hòa bình trong khu vực”. Tuyên bố thúc giục các bên thực hiện kiềm chế, tránh khỏi việc quân sự hóa khu vực và giải quyết các tranh chấp qua các biện pháp hòa bình. Người phát ngôn của EU gợi ý là “các bên nên tìm kiếm sự trợ giúp từ bên thứ ba theo các hình thức hòa giải hoặc cơ chế tòa để giải quyết những đòi hỏi về chủ quyền, nếu cảm thấy cần thiết”. Cuối cùng, EU cho biết sự ủng hộ toàn bộ của khối đối với các quá trình do ASEAN đứng đầu (và) một kết thúc nhanh chóng theo cách minh bạch, đối với các thảo luận về một Bộ Quy tắc về ứng xử có hiệu quả, thực chất và có tính ràng buộc về pháp lý.
Việc Việt Nam kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để giải quyết những căng thẳng hiện tại ở Bãi Tư Chính đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Mỹ. Nhật, Australia, và EU đã bày tỏ những quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây mà không nêu tên Trung Quốc. Khi xem xét toàn bộ phản ứng của cộng đồng quốc tế, có thể thấy có 3 điểm chính: quan ngại về những đe dọa cho hoạt động sản xuất dầu khí, sự cần thiết phải tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài và quyền lợi của các bên thứ ba trong kết quả đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).
*Carl Thayer là giáo sư thuộc trường Đại học New South Wales, Canberra, Australia. Ông là người đóng góp cho RFA các bài phân tích về ảnh hưởng của Trung Quốc tới Việt Nam.
Quốc hội Việt Nam lên án Trung Quốc
‘vi phạm nghiêm trọng chủ quyền’
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 vào sáng 21/10, Quốc hội Việt Nam đã đề cập đến những diễn tiến căng thẳng gần đây trên Biển Đông và nói rằng các tàu Trung Quốc đã “vi phạm nghiêm trọng” vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lặp lại khẳng định “không bao giờ nhân nhượng” đối với vấn đề độc lập, chủ quyền khi ông đọc báo cáo trước nghị trường.
Đây là lần đầu tiên vấn đề Biển Đông được đưa ra trước hơn 500 đại biểu Quốc hội kể từ khi xảy ra vụ đụng độ ở khu vực gần Bãi Tư Chính giữa lực lượng cảnh sát biển Việt Nam với các tàu hải cảnh Trung Quốc vào đầu tháng 7, sau khi Bắc Kinh đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 tới hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cơ quan thẩm tra của Quốc hội Việt Nam ngày 21/10 nói rằng “việc xảy ra vi phạm của các tàu Trung Quốc hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thời gian qua là nghiêm trọng”, theo tường thuật của báo Dân Trí.
Thường trực Ủy ban Kinh tế, ông Vũ Hồng Thanh, đề nghị cần phải nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, quốc phòng và chủ động phân tích, dự báo tình hình khu vực và thế giới để có đối sách thích hợp trong việc bảo vệ chủ quyền.
Cũng tại buổi họp, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, sau khi lặp lại phát biểu “không nhân nhượng” về vấn đề chủ quyền mà ông đã đưa ra hồi tháng trước, đã khẳng định về “chủ trương đúng đắn, lập trường chính nghĩa và các nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta” trong việc xử lý những vấn đề liên quan đến Biển Đông, theo Zing.
Việc Trung Quốc nhiều lần đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 ra, vào hoạt động trong vùng biển của Việt Nam trong nhiều tháng qua với lý do “khảo sát” đã đẩy mối quan hệ Việt-Trung lên mức căng thẳng đỉnh điểm, kể từ sau vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Bất chấp Hà Nội nhiều lần lên tiếng và kể cả gửi công hàm chính thức phản đối, Trung Quốc không những không dừng lại các hoạt động trên mà còn tiếp tục đưa cả tàu cẩu Lam Kình vào vùng EEZ của Việt Nam và giàn khoan Thạch Du 982 vào hoạt động trên Biển Đông tại vùng nước sâu 3.000 mét vào cuối tháng trước, South China Morning Post tường thuật.
Vào tháng 8, một nhóm nhân sỹ trí thức Việt Nam đã tìm cách “trao tận tay” bản Tuyên bố Biển Đông với hơn 1.000 chữ ký cho các nhà lập pháp tại Hà Nội để yêu cầu chính phủ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Tuy nhiên, nỗ lực của các trí thức Việt Nam đã không thành công khi Văn phòng Quốc hội yêu cầu phải có lịch hẹn trước mới được tiếp xúc và làm việc.
Cho đến thời điểm hiện tại, sau khi các chóp bu Việt Nam như Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng-Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh… và một số tướng lĩnh lên tiếng gần đây về vấn đề Biển Đông, Hà Nội vẫn chưa cho thấy dấu hiệu rõ ràng nào về khả năng sẽ khởi kiện Trung Quốc trong tương lai gần, giống như Philippines đã làm và đã thắng kiện tại Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) vào năm 2016.
Hải Dương 8:
TQ đang “chà đạp” lên luật pháp quốc tế
Từ cuối tháng 6, đầu tháng 7/2019 đến nay, Trung Quốc ngang nhiên đưa nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào hoạt động trái phép trong Vùng Đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp của Việt Nam. Hành động này cho thấy Bắc Kinh đang dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, cũng như vị thế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc để “chà đạp” lên luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS…
Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam
Bãi Tư Chính cùng các bãi ngầm và đá ngầm ở khu vực này là một phần không thể tách rời của thềm lục địa Việt Nam về phía Đông Nam, ngăn cách với quần đảo Trường Sa của Việt Nam bằng một rãnh sâu nên theo Công ước UNCLOS 1982 và hoàn toàn không thuộc quần đảo Trường Sa.
Về mặt địa chất thì vùng Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam và không phải là một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Bãi Tư Chính của Việt Nam được các luật sư công pháp quốc tế khẳng định hoàn toàn không nằm trong khu vực chồng lấn chủ quyền. Cho nên, bãi Tư Chính chưa hề và chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền. Bãi Tư Chính ở trên thềm lục địa Việt Nam, đã được Việt Nam sử dụng và khai thác đặc quyền kinh tế một cách ổn định và từ lâu, chứ không phải bây giờ mới có, mới xuất hiện tuyên bố chủ quyền, càng không phải khu vực đang có tranh chấp trên biển. Ngoài ra, từ trước đến nay, 5 quần đảo của cấu trúc nước sâu Biển Đông luôn được các tài liệu chính thống của Ủy ban Thủy đạo quốc tế Liên hợp quốc và các tài liệu địa lý quốc tế công bố về mặt địa lý. Chưa bao giờ và cũng chưa có một học giả nào quan niệm rằng Trường Sa bao gồm cả cụm Tư Chính.
Từ cuối tháng 6, đầu tháng 7/2019 đến nay, Trung Quốc ngang nhiên đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng với nhiều tàu cảnh sát biển, tàu hải giám, tàu dân quân biển, trong đó có tàu cảnh sát biển loại lớn nhất và có vũ trang của Trung Quốc mang số hiệu 3901 với tải trọng 12.000 tấn, đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn. Đáng chú ý, theo hệ thống AIS vệ tinh, tàu Hải Dương Địa Chất 8 cùng nhóm tàu hộ tống của Trung Quốc (9/10) tiếp tục đi sâu thêm một cách bất thường vào biển Việt Nam, so với đường khảo sát thứ 6 đã cách 21 hải lý. Nếu tính theo hướng mũi tàu thì hiện giờ tàu này đang cách mũi Đá Vách (cạnh vịnh Cam Ranh) 86,6 hải lý. Đây là điểm sâu nhất trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 đạt tới từ tháng 9 đến nay và có lẽ sâu nhất kể từ đợt đầu tiên. Với sơ đồ đường đi vừa vào sâu vừa trải dài, có thể nói hoạt động khảo sát của tàu Hải Dương Địa Chất 8 đã bao phủ một diện rộng suốt dọc khu vực biển không thể tranh chấp của Việt Nam, bề dài xấp xỉ 363 hải lý và bề rộng xấp xỉ 73 hải lý. Ngoài thu thập các dữ liệu về dầu khí, khả năng cao nhóm tàu Trung Quốc còn khảo sát bề mặt, địa hình lồi lõm dưới đây biển, biết các luồng lạch mà tàu ngầm có thể di chuyển thuận lợi nhất
Bắc Kinh “chà đạp” luật quốc tế
Hành động của Trung Quốc cho thấy nước này đang vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS, DOC, thỏa thuận song phương với Việt Nam…
Trung Quốc vi phạm nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế: Nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được quy định tại khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó, mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ đối với các điều ước quốc tế mà nước mình đã tham gia ký kết. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế khác. Lời mở đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định quyết tâm của các nước thành viên là: “Tạo những điều kiện cần thiết để bảo đảm công lý và tôn trọng những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tế đặt ra”. Điều 26 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế cũng nêu rõ “Mọi điều ước đã có hiệu lực ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế; Định ước Helsinki năm 1975 cũng có nêu rõ nguyên tắc này.
Trung Quốc vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc: Không chỉ là thành viên mà Trung Quốc còn là 1 trong 5 Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, vậy mà Trung Quốc đã không tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc. Hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia quy định tại Khoản 1 Điều 2 Hiến chương LHQ khi Trung Quốc dựa vào vị thế nước lớn nên tự cho mình có nhiều quyền và lợi ích trên biển hơn quốc gia khác, để tiến hành hoạt động quân sự nhằm bảo vệ cho những quyền và lợi ích đó bất chấp việc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền, lợi ích hợp pháp của các nước khác. Vi phạm nguyên tắc các quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình quy định tại Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ. Vi phạm Khoản 4, Điều 2 Hiến chương LHQ, cụ thể quy định “các quốc gia thành viên hạn chế việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực (Vũ lực thông thường được hiểu là vũ lực quân sự, vũ lực do vũ khí, khí tài) trong quan hệ quốc tế chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác hoặc trái với các mục đích của LHQ”. Vi phạm Điều 33 Hiến chương LHQ, trong đó quy định: “Các bên tham gia tranh chấp trước tiên phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”, tuy nhiên việc quân sự hóa trên các thực thể ở Biển Đông của Trung Quốc hoàn toàn đi ngược lại quy định này.
Trung Quốc vi phạm UNCLOS: Trung Quốc là một thành viên ký UNCLOS, tuy nhiên, Trung Quốc không những không thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước mà còn ngang nhiên vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của Công ước. Trung Quốc cũng đã phớt lờ Điều 123 UNCLOS về trách nhiệm của các quốc gia ven biển hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của họ; vi phạm Điều 129, Điều 193, Điều 196 UNCLOS về nghĩa vụ chung cho tất cả các quốc gia trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Vi phạm quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không. Cùng với việc Trung Quốc thúc đẩy các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông, an ninh hàng hải và hàng không bị ảnh hưởng rất lớn, quyền tự do hàng hải và quyền đi qua không gây hại của các quốc gia khác cũng như quyền tự do hàng không bị thu hẹp và phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Ngoài ra, Trung Quốc cũng vi phạm các quy định Điều 87 UNCLOS, liên quan việc “tôn trọng hợp lý”.Việc hưởng quyền xây dựng đảo nhân tạo của một số quốc gia không nên ảnh hưởng bất hợp lý đến quyền và lợi ích của các quốc gia khác cũng như cả cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong các điều khoản liên quan của UNCLOS, nó chỉ ra rằng khi một quốc gia
ven biển thiết lập vùng an toàn xung quanh đảo nhân tạo, cần đảm bảo rằng khu vực này liên quan một cách hợp lý đến bản chất và chức năng của hòn đảo nhân tạo ấy, và cũng cần phải đưa ra thông báo về phạm vi của vùng an toàn. Hơn nữa, “đảo, các thiết lập và cấu trúc nhân tạo cùng với các vùng an toàn bao quanh chúng có thể không được thiết lập nếu chúng ảnh hưởng đến việc sử dụng các tuyến đường biển đã được công nhận thiết yếu đối với đường biển quốc tế”.
Trung Quốc vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC): Trung Quốc đã ký kết DOC với các nước ASEAN năm 2002, tuy nhiên những hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông đã đi ngược lại Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 DOC, theo đó, “Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên căn bản bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; Các bên cam kết kiềm chế không tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp thêm hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của khu vực; Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời Biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả UNCLOS”.
Ngoài ra, hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông cũng đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo Cấp cao Việt Nam – Trung Quốc ký kết trong các chuyến thăm cấp cao như: Tuyên bố chung về chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (11-15/10/2011); Tuyên bố chung về chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (19-21/6/2013); Tuyên bố chung trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (13-15/10/2013); Tuyên bố chung liên quan chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (7-10/4/2015); Thông cáo chung sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (12-15/1/2017) và Tuyên bố chung liên quan chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (12-13/11/2017). Theo đó, Trung Quốc đã vi phạm nhận thức chung về việc: Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
Cộng đồng quốc tế phản đối
Cộng đồng quốc tế đã ngay lập tức có phản ứng trước hành vi gây căng thẳng trên Biển Đông của Trung Quốc khi đưa nhóm tàu Hải Dương 8 xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền không thể tranh cãi và bác bỏ của Việt Nam. Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) nêu rõ, trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã có những hành vi quấy rối các hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi thuộc vùng lãnh hải Malaysia và Việt Nam, trong đó có việc triển khai tàu khảo sát địa chất Hải Dương 9 với sự hộ tống của các tàu hải cảnh tiến hành các hoạt động khảo sát địa chất gần bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam. Báo cáo của AMTI cũng chỉ rõ, những hành vi của Trung Quốc ở ngoài khơi Malaysia và vùng biển Việt Nam cho thấy nước này sẵn sàng có hành động cưỡng ép và dọa dùng vũ lực để ngăn cản các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của các nước láng giềng.
Mỹ với vai trò là quốc gia nằm bên bờ Thái Bình Dương và đã tuyên bố “có lợi ích sống còn” trên đại dương rộng lớn nhất thế giới này, Mỹ đã có những phản ứng mạnh trước hành vi gây căng thẳng, đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ cùng nhiều quan chức đã chỉ trích các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhằm vào các hoạt động phát triển dầu mỏ và khí đốt của các quốc gia có tuyên bố chủ quyền khác trong khu vực đã đe dọa an ninh năng lượng khu vực và làm tổn hại tới thị trường năng lượng của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi Trung Quốc chấm dứt “hành vi bắt nạt và không thực hiện những hành động khiêu khích cũng như gây bất ổn”. Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton nhấn mạnh: “Hành động bắt nạt của Trung Quốc” đối với các quốc gia láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa đến hòa bình cũng như ổn định ở khu vực.
Giới chức Anh, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia… cũng đưa ra các tuyên bố thể hiện sự quan ngại, lên án những hành vi phi pháp của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam, đồng thời kêu gọi Bắc Kinh tuân thủ luật pháp quốc tế, chấm dứt các hành vi khiêu khích, xâm phạm lãnh thổ nước khác và ngăn chặn hoạt động thăm dò dầu khí hợp pháp ở Biển Đông.
Ngoài ra, dư luận khu vực và thế giới cho rằng, là cường quốc trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, một Ủy viên Thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và một thành viên của Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Trung Quốc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ góp phần gìn giữ môi trường hòa bình ổn định, thúc đẩy hợp tác, hữu nghị trên toàn thế giới cũng như trong khu vực Biển Đông. Trung Quốc vì thế phải rút ngay nhóm tàu Hải Dương 8 khỏi vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông để làm giảm căng thẳng hiện nay.
Trước việc Trung Quốc đưa nhóm tàu Hải Dương 8 xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phản đối. Theo đó, Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc, trao Công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Việt Nam cũng nêu rõ, các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS 1982, pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam nếu không được phép của Việt Nam đều vô giá trị, xâm phạm vùng biển Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với UNCLOS 1982. Việt Nam hết sức coi trọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thiện chí và sẵn sàng giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trên cơ sở đó, trong thời gian qua, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề, đấu tranh yêu cầu tôn trọng vùng biển Việt Nam, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên vùng biển của mình, không có hành động làm phức tạp tình hình. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã và đang thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Bộ trưởng Quốc phòng TQ:
Các đảo Biển Đông là ‘một phần lãnh thổ’
Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa nói các đảo ở Biển Đông là “một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc” trong bài phát biểu khai mạc Diễn đàn Hương Sơn lần 9 tại Bắc Kinh hôm 21/10.
Trong các quan chức cấp cao quốc tế tham gia diễn đàn có Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch.
“Chủ tịch Tập đã đặt hy vọng cao trên diễn đàn và chỉ ra hướng cho các bên tham gia cùng xây dựng sự đồng thuận về hòa bình và tăng cường hợp tác an ninh,” ông Ngụy Phượng Hòa chuyển lời của Chủ tịch Trung Quốc tới các quan chức hiện diện tại diễn đàn, theo Tân Hoa Xã.
Trong khi đó, cũng phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch nói vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, “không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực.”
Các đảo Biển Đông – ‘lãnh thổ không thể tách rời’
Bộ trưởng Quốc phòng Ngụy Phượng Hòa nói, Trung Quốc là nước duy nhất trên thế giới “chưa tái thống nhất hoàn toàn.”
Ông Ngụy nhấn mạnh việc “giải quyết vấn đề Đài Loan” là “xu hướng không thể cưỡng lại của thời đại, lợi ích quốc gia lớn nhất của Trung Quốc.”
Ông Ngụy còn đề cập đến các đảo ở Biển Đông và các đảo Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông.
“Các đảo ở Biển Đông và đảo Điếu Ngư là những phần lãnh thổ không thể thay đổi của Trung Quốc. Chúng tôi thậm chí sẽ không cho phép lấy đi một tấc lãnh thổ mà tổ tiên của chúng tôi đã để lại,” ông Ngụy tuyên bố.
Bộ trưởng Quốc phòng VN nói gì tại diễn đàn?
Cũng có mặt tại diễn đàn, ông Ngô Xuân Lịch đã có bài phát biểu thể hiện quan điểm của Việt Nam.
Liên quan đến tình hình Biển Đông, ông Ngô Xuân Lịch nêu rõ: “Vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích hợp pháp của mỗi nước với tinh thần đối tác, vì trách nhiệm cộng đồng.
“Việt Nam cam kết sẽ nỗ lực cùng các nước thúc đẩy hợp tác nhằm xây dựng Biển Đông thành một khu vực hòa bình, ổn định và phát triển, vì lợi ích chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực”.
“Trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và phát huy truyền thống đoàn kết, hữu nghị, những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cần được kiên trì xử lý theo tinh thần thỏa thuận cấp cao giữa lãnh đạo hai nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực,” ông Ngô Xuân Lịch khẳng định.
Trung Quốc là ‘nước yêu hòa bình’
Cũng trong bài phát biểu khai mạc diễn đàn, Bộ trưởng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa lặp lại quan điểm:”Trung Quốc là một quốc gia yêu chuộng hòa bình. Chúng tôi không công nhận hay chấp nhận logic rằng một cường quốc mạnh mẽ ắt sẽ tìm kiếm quyền bá chủ.”
“Sự phát triển của Trung Quốc không gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với bất kỳ quốc gia nào khác… Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ hay sự bành trướng hay thiết lập phạm vi ảnh hưởng.”
“Tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, giàu hay nghèo, đều bình đẳng và đều có quyền độc lập lựa chọn con đường phát triển của riêng mình. Việc nhúng tay vào các vấn đề khu vực, can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác, khơi dậy các cuộc cách mạng màu và thậm chí cố gắng lật đổ các chính phủ hợp pháp của các quốc gia khác, là nguồn gốc thực sự của các cuộc chiến tranh và thảm họa khu vực,” ông này nói thêm.
“Không ai và không thế lực nào có thể ngăn chặn toàn bộ Trung Quốc thống nhất. Chúng tôi cam kết thúc đẩy hòa bình phát triển quan hệ eo biển xuyên Đài Loan và hòa bình thống nhất đất nước,” ông Ngụy nói.
Biển Đông ‘được nhắc 6 lần’ ở Quốc hội
Tờ An ninh Thủ đô sáng 22/10 cho rằng, Trung Quốc “tiếp tục ngụy biện về chủ quyền Biển Đông” qua bài phát biểu của ông Ngụy Phượng Hòa.
Trong khi đó tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội Việt Nam, sáng 21/10, chủ đề Biển Đông liên tục “được nhắc đến”, xuất hiện ít nhất sáu lần theo báo Tuổi Trẻ.
Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc cũng lặp lại tuyên bố cách đây vài ngày của ông và của Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:
“Đảng và Nhà nước ta đã nhất quán chủ trương những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ chúng ta không bao giờ nhân nhượng; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước,” ông Phúc nói.
Chủ quyền Biển Đông cũng được nêu trong báo cáo thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội và do đó, theo Tuổi trẻ, Quốc hội yêu cầu:
“Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, quốc phòng, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền; chủ động nắm, phân tích dự báo tình hình thế giới và khu vực để có chủ trương, đối sách phù hợp, nhất là các vấn đề biên giới, chủ quyền biển đảo.”
Diễn đàn Hương Sơn là đối trọng với đối thoại Shangri-la
Theo Tân Hoa Xã, hơn 1.300 người đã tham dự diễn đàn Hương Sơn lần thứ 9 này, gồm 23 bộ trưởng quốc phòng, đại diện của 76 phái đoàn chính thức và tám tổ chức quốc tế, cũng như các chuyên gia và quan sát viên nổi tiếng.
Diễn đàn năm nay có chủ đề là “Duy trì trật tự quốc tế và thúc đẩy hòa bình ở châu Á-Thái Bình Dương.”
Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 9 tại Bắc Kinh (Trung Quốc) diễn ra từ ngày 20 đến 22-10, do Viện Khoa học quân sự và Viện Nghiên cứu quốc tế Trung Quốc đứng ra tổ chức.
Diễn đàn được coi là dịp để Trung Quốc tập hợp lực lượng đối trọng với Đối thoại Shangri-la (Singapore) do Mỹ và phương Tây tổ chức, theo tờ An ninh Thủ đô.
Biển Đông sẽ tiếp tục nóng tại thượng đỉnh ASEAN
Hãng tin Kyodo News dẫn một tài liệu cho biết các lãnh đạo ASEAN sẽ bàn về vấn đề người Rohingya ở Myanmar và tranh chấp Biển Đông trong cuộc gặp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 35 vào đầu tháng sau tại Thái Lan.
Kyodo News thông tin lãnh đạo 10 nước ASEAN sẽ nhắc lại lời kêu gọi củng cố vai trò của khối trong tiến trình hồi hương an toàn hàng trăm ngàn người Rohingya từ các trại tị nạn ở Bangladesh về Myanmar.
Về vấn đề Biển Đông, tài liệu cho biết các nhà lãnh đạo khu vực sẽ tiếp tục bày tỏ lo ngại về hoạt động bồi đất và hoan nghênh tiến triển trong đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) với Trung Quốc.
“Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phi quân sự hóa và tự kiềm chế trong tất cả hành động của các bên tuyên bố chủ quyền và các nước khác… có thể làm phức tạp thêm tình hình và làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông”, Kyodo News ngày 21-10 dẫn nội dung tài liệu viết.
Về thương mại toàn cầu, các nhà lãnh đạo ASEAN sẽ bày tỏ “mối quan ngại sâu sắc đối với căng thẳng thương mại đang gia tăng” cũng như khuynh hướng bảo hộ và chống toàn cầu hóa đang diễn ra.
Tài liệu cho biết các thành viên của ASEAN – gồm Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam – cam kết duy trì một môi trường thương mại toàn cầu cởi mở, toàn diện, cạnh tranh và dựa trên luật lệ.
Ngoài ra, các nhà lãnh đạo cũng sẽ thảo luận về các vấn đề môi trường, bao gồm biến đổi khí hậu, rác thải đại dương và ô nhiễm khói mù.
Sau cuộc gặp trong khối, các nhà lãnh đạo ASEAN sẽ gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ vào ngày 3 và 4-11.
Trong khi đó, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và 16 quốc gia khác đang đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) cũng sẽ diễn ra trong thời gian này.
0 comments