Tin Biển Đông – 13/07/2019
Ba năm sau phán quyết Biển Đông:
Đã tròn 3 năm kể từ ngày tòa án quốc tế ra phán quyết nói rằng cái gọi là ‘chủ quyền lịch sử’ của Trung Quốc đối với vùng biển trong đường chín đoạn trên Biển Đông là ‘không có cơ sở
pháp lý’, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ngày 12/7 có bài viết nhìn lại kết quả Trung Quốc có hay không tuân thủ phán quyết này sau ba năm.
Vào ngày 12 /7 năm 2016, Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) ở La Haye đã đưa ra phán quyết trong vụ kiện của Manila chống lại yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông. Được triệu tập trong khuôn khổ các điều khoản giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), năm trọng tài của tòa đã ra phán quyết áp đảo ủng hộ Philippines. Bắc Kinh từ chối tham gia vào vụ kiện này và bác bỏ phán quyết. Trong khi đó, Tổng thống mới của Philippines, ông Rodrigo Duterte, đã làm ngơ thắng lợi này của nước ông với hy vọng thuyết phục được Trung Quốc hướng tới một chính sách hòa giải hơn và do đó, áp lực quốc tế buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết đã tan biến.
Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát hy vọng rằng khi thời gian trôi qua, Trung Quốc có thể tìm ra những cách giữ thể diện về mặt chính trị để đưa các đòi hỏi chủ quyền và hành vi của họ phù hợp với nội dung của phán quyết, ngay cả khi họ bác bỏ phiên tòa này.
Nhìn chung, theo đánh giá của AMTI, Trung Quốc chỉ tuân thủ 2 trong số 11 nội dung của phán quyết, trong khi một nội dung khác của phán quyết thì mọi thứ vẫn chưa rõ ràng để có thể đánh giá.
Trung Quốc không thể yêu sách ‘chủ quyền lịch sử’ hoặc các quyền khác trong phạm vi đường chín đoạn vốn vượt khỏi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được mà Trung Quốc được UNCLOS cho phép.
Kết quả: không tuân thủ
Tuy nhiên, một ngày sau khi phán quyết của trọng tài được công bố, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ban hành Sách Trắng khẳng định rằng: “Ngoài vùng biển nội địa, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Trung Quốc còn có quyền lịch sử trong Biển Đông.” Trong ba năm qua, các quan chức Trung Quốc đã ít đề cập hơn về đường chín đoạn như là cơ sở cho yêu sách của họ đối với Biển Đông, nhưng Trung Quốc tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử vốn không rõ ràng đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở Biển Đông. Chính vì dựa trên cơ sở này mà ngư dân Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines và Indonesia. Đó cũng là cơ sở mà Bắc Kinh phản đối tất cả các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong đường chín đoạn, bất kể chúng nằm cách các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền bao xa.
2. Bãi cạn Scarborough và các thực thể thủy triều cao ở quần đảo Trường Sa có lãnh hải nhưng không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Kết quả: chưa xác định được
Đây là điểm quan trọng thứ hai trong phán quyết. Theo đó, cả bãi cạn Scarborough cũng như bất kỳ thực thể thủy triều cao nào ở quần đảo Trường Sa đều không có khả năng là nơi lưu trú của con người hoặc duy trì đời sống kinh tế riêng. Do đó những thực thể này chỉ có được lãnh hải rộng 12 hải lý chứ không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý hay thềm lục địa rộng 350 hải lý.
Cộng với việc bác bỏ chủ quyền lịch sử trong đường chín đoạn, thì phán quyết không cho các thực thể mà Trung Quốc chiếm giữ được hưởng các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa này đã làm giảm đáng kể vùng biển có thể tranh chấp về mặt pháp lý.
Kết hợp với sự từ chối của tòa án đối với yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử trong suốt đường chín đoạn, điều này làm giảm các khu vực tranh chấp hợp pháp xung quanh các đảo và các rạn san hô sau đây:
Nhiều người tin rằng Trung Quốc đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho bãi cạn Scarborough và nhiều thực thể khác, nếu không phải là tất cả, của Trường Sa. Tuy nhiên, điều này không được nêu công khai trong luật pháp hoặc tuyên bố công khai của Trung Quốc. Sách Trắng năm 2016 của Bắc Kinh khẳng định rằng Trung Quốc, dựa trên ‘các hòn đảo ở Nam Hải (Biển Đông) được hưởng vùng biển nội địa, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.’ Nhưng có thể cho rằng tuyên bố này chỉ có nghĩa là một số hòn đảo, đặc biệt là ở quần đảo Hoàng Sa, mới tạo ra các quyền lợi này.
Ngoài ra, các hành động của Trung Quốc trong các vùng đặc quyền kinh tế các của nước láng giềng có thể được giải thích bởi nhu cầu liên tục của nước này phải đòi quyền lịch sử và do đó không phải là bằng chứng cho yêu sách vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Tuy nhiên nếu trong tương lai Bắc Kinh công bố đường cơ sở (để từ đó tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) xung quanh các thực thể họ đòi chủ quyền ở Trường Sa, thì khi đó sự không tuân thủ phán quyết của Trung Quốc trở nên rõ ràng hơn, nhưng hiện tại các tuyên bố của Bắc Kinh vẫn còn mơ hồ để có thể đánh giá rõ ràng.
3. Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) thứ hai và vùng biển xung quanh nó là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Kết quả: không tuân thủ
Tòa án cho thấy Bãi Cỏ Mây, vốn bị chiếm đóng từ năm 1999, nằm dưới mặt nước khi thủy triều lên và do đó không tạo ra vùng biển được sở hữu nào. Bãi Cỏ Mây nằm trong phạm vi 200 hải lý tính từ bờ biển Philippines và do đó thuộc về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Bất chấp phán quyết này, các tàu tuần duyên của Trung Quốc tiếp tục tuần tra gần Bãi Cỏ Mây thường xuyên và vào tháng 5 năm 2018, một máy bay trực thăng của Hải quân của Giải phóng Quân Nhân dân Trung Quốc đã quấy rối một cách nguy hiểm một đoàn tàu tiếp tế của Philippines tới Sierra Madre.
4. Trung Quốc chiếm đóng trái phép Đá Vành Khăn nằm trong thềm lục địa của Philippines.
Kết quả: không tuân thủ
Giống như Bãi Cỏ Mây, hội đồng trọng tài phán quyết rằng Đá Vành Khăn là thực thể thủy triều thấp vốn nằm trong tạo vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Hơn nữa, các trọng tài nhận thấy rằng, Trung Quốc đã xây dựng các đảo nhân tạo và lắp đặt tại Đá Vành Khăn mà không có sự cho phép của Philippines. Đây có lẽ là phần khó nhất trong phán quyết mà có thể nghĩ rằng Trung Quốc sẽ tuân thủ bởi vì nếu tuân thủ họ sẽ phải từ bỏ căn cứ hải quân và không quân của mình tại Đá Vành Khăn hoặc cần phải có sự cho phép của Philippines thì mới tiếp tục chiếm đóng. Trong khi đó, Trung Quốc không chỉ chiếm giữ rạn san hô mà dường như vẫn tiếp tục đòi quyền lợi về biển xung quanh nó mà bằng chứng là sự phản đối của họ đối với hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kỳ trong phạm vi 12 hải lý của Đá Vành Khăn.
5. Trung Quốc ngăn chặn bất hợp pháp Philippines khai thác tài nguyên trong thềm lục địa của họ.
Kết quả: không tuân thủ
Phán quyết của trọng tài đã kết luận rằng Bãi Cỏ Rong, hoàn toàn dưới nước và nằm trong phạm vi 200 hải lý của Philippines, là một phần của thềm lục địa của nước này và cho rằng Trung Quốc đã vi phạm Công ước khi tàu thực thi pháp luật của họ ngăn chặn hoạt động của tàu khảo sát Philippines.
Trung Quốc tiếp tục ngăn chặn Philippines khai thác dầu khí tại Bãi Cỏ Rong bất chấp phán quyết. Vào tháng 11 năm 2018, hai bên đã ký một biên bản ghi nhớ có thể mở đường cho sự hợp tác cùng khai thác tại Bãi Cỏ Rong. Các chi tiết chưa được bàn thảo và có thể thỏa thuận này có thể mở đường cho Trung Quốc tuân thủ phán quyết về mặt kỹ thuật. Nếu Bắc Kinh đồng ý cho một công ty Trung Quốc đầu tư dưới dạng hợp đồng của Philippines dưới sự giám sát của Manila, thỏa thuận này sẽ phù hợp với phán quyết. Nhưng nếu Trung Quốc khăng khăng thỏa thuận hợp tác cùng khai thác nằm ngoài quyền tài phán của Philippines, đó sẽ là không tuân thủ.
6. Trung Quốc đã vi phạm quyền đánh cá của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Kết quả: không tuân thủ
Toà án cho thấy Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, đặc biệt là bằng cách ban hành lệnh cấm đánh bắt ở Biển Đông hồi năm 2012. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm bao gồm phần lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Việt Nam. Lệnh cấm gần đây nhất đã gây ra phản ứng giận dữ từ văn phòng của tổng thống Philippines.
7. Trung Quốc không ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Kết quả: không tuân thủ
Các trọng tài xác định rằng Trung Quốc đã ‘không thể hiện sự tôn trọng quyền chủ quyền của Philippines đối với hoạt động đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của họ’.
Hàng trăm tàu cá Trung Quốc tiếp tục hoạt động dưới sự giám sát của Lực lượng Tuần dương Trung Quốc tại Bãi Vành Khăn và trên khắp Trường Sa mỗi ngày, mặc dù các tàu này dành nhiều làm lực lượng dân quân trên biển hơn là đánh bắt cá. Vào tháng 6, một tàu cá Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Bãi Cỏ Rong đã đâm chìm một tàu cá Philippines, dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
8. Trung Quốc chặn trái phép hoạt động đánh bắt truyền thống của ngư dân Philippines tại bãi cạn Scarborough.
Kết quả: tuân thủ
Tại bãi cạn Scarborough, tòa án kết luận rằng cả ngư dân Trung Quốc và Philippines đều có quyền tham gia đánh bắt như truyền thống bất kể nước nào có chủ quyền đối với bãi cạn này. Nhưng các trọng tài phán quyết rằng ‘Trung Quốc thông qua hoạt động của các tàu chính thức của họ tại Bãi cạn Scarborough từ tháng 5 năm 2012 trở đi đã ngăn chặn một cách bất hợp pháp ngư dân Philippines tham gia đánh bắt cá truyền thống’.
Cho đến cuối năm 2016, trong một cử chỉ rõ ràng là thiện chí với chính phủ của ông Duterte, các tàu tuần dương Trung Quốc đóng tại bãi cạn này đã bắt đầu cho phép các tàu cá Philippines hoạt động dọc theo bên ngoài rạn bãi cạn, mặc dù họ không được phép đánh cá bên trong đầm phá. Cho đến giờ vẫn vậy. Đó vẫn là trường hợp ngày hôm nay, mặc dù tình hình vẫn căng thẳng trong các ngư dân Philippines báo cáo thường xuyên về việc bị các nhân viên thực thi pháp luật Trung Quốc quấy rối và đe dọa.
Tuy nhiên, đây là một khía cạnh của phán quyết trọng tài mà Trung Quốc tuân thủ rõ ràng nhất. Và điều đó rất quan trọng về mặt chính trị đối với chính quyền của ông Duterte. Ông Duterte đã từng nói rằng ông đã có một thỏa thuận miệng bí mật với Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2016 mà theo đó ông mắt làm ngơ trước việc đánh bắt cá của Trung Quốc tại thềm lục địa của Philippines để đổi lấy quyền đánh cá của người Philippines tại bãi cạn Scarborough.
9. Trung Quốc cho phép ngư dân khai thác trái phép các loài có nguy cơ tuyệt chủng bằng cách biện pháp tàn phá môi trường
Kết quả: không tuân thủ
Phán quyết kết luận rằng Trung Quốc ‘đã dung túng và bảo vệ cũng như không ngăn chặn các tàu cá Trung Quốc tham gia vào các hoạt động khai thác có hại các loài có nguy cơ tuyệt chủng tại Bãi cạn Scarborough, Bãi Cỏ Mây và thực thể khác ở Quần đảo Trường Sa’. Trung Quốc có hoạt động khai thác quy mô lớn loài sò tai tượng trong diện khẩn nguy vốn đã phá hủy nghiêm trọng một diện tích lớn san hô từ năm 2012 cho đến 2016, thường là dưới sự theo dõi của các tàu chấp pháp Trung Quốc.
Sau khi giảm mạnh hoạt động đánh bắt này sau năm 2016, những ngư dân bắt sò Trung Quốc đã quay trở lại hoạt động phá hoại của họ tại Bãi cạn Scarborough và khắp quần đảo Hoàng Sa mà thường hành động dưới sự chứng kiến rõ ràng của Lực lượng Tuần dương Trung Quốc.
10. Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường biển thông qua việc xây đắp đảo.
Kết quả: không tuân thủ
Toà án nhận ra rằng từ cuối năm 2013, các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc tại các thực thể ở quần đảo Trường Sa đã vi phạm UNCLOS vốn bắt buộc các nước ký kết phải bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Trung Quốc đã hoàn thành công việc nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016. Có thể lập luận rằng một số hoạt động của Trung Quốc đang diễn ra, chẳng hạn như việc lắp đặt các trạm giám sát trên các rạn san hô ở Hoàng Sa, vẫn đang hủy hoại môi trường sống dưới biển mà không có đánh giá tác động môi trường phù hợp. Nhưng một khi đã hết chỗ để bồi đắp đảo thêm nữa thì có thể nói rằng Trung Quốc hiện đang tuân thủ về mặt kỹ thuật phần lớn nội dung này của phán quyết. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi nếu Trung Quốc triển khai công việc nạo vét hoặc bồi đắp mới tại bãi cạn Scarborough hoặc các nơi khác.
11. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã vi phạm các quy định về chống va chạm bằng cách tạo ra nguy cơ va chạm và gây nguy hiểm cho các tàu của Philippines.
Kết quả: không tuân thủ
Cuối cùng, các trọng tài phán quyết rằng trong thời gian đối đầu hồi năm 2012 xung quanh bãi cạn Scarborough, các tàu thực thi pháp luật Trung Quốc đã ‘tạo ra nguy cơ va chạm nguy hiểm nghiêm trọng cho các tàu và nhân viên của Philippines’.
Mặc dù không có sự cố nào xảy ra một lần nữa ở bãi cạn Scarborough do chính quyền Philippines giữ khoảng cách, Cảnh sát biển Trung Quốc, Hải quân nước này và các tàu dân quân hàng hải tiếp tục thường xuyên có các hành vi vi phạm tương tự và tạo ra nguy cơ va chạm đối với tàu nước ngoài ở Biển Đông. Vụ quấy rối tàu tiếp tế của Philippines gần Bãi Cỏ Mây vào tháng 5 năm 2018 là một ví dụ. Các hành động nguy hiểm của một tàu Hải quân Trung Quốc đối với sứ mạng tuần tra vì tự do hàng hải của tàu Mỹ USS Decatur ở Hoàng Sa hồi tháng 10 năm 2018 là một ví dụ nữa.
(Theo Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á AMTI)
Việt – Trung: Căng thẳng xảy ra
”suốt một tuần” ở Bãi Tư Chính
Quốc PhươngBBC News Tiếng Việt
Trung Quốc và Việt Nam đang có đối đầu căng thẳng liên quan tàu ‘khảo sát’ của Trung Quốc triển khai tới một rạn san hô đang tranh chấp ở Biển Đông, báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP) đưa tin.
Các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc và Việt Nam đã tham gia vào một cuộc đối đầu kéo dài một tuần tại khu vực một rạn san hô ở Biển Đông, sự kiện có nguy cơ xảy ra cuộc đụng độ lớn nhất giữa hai quốc gia trong năm năm trở lại đây, tờ báo này cho biết hôm 12/7/2019 .Đối đầu có thể gây ra một làn sóng tình cảm chống Trung Quốc ở Việt Nam chưa từng thấy, kể từ năm 2014, khi một giàn khoan dầu của Trung Quốc (HD-981) tới khu vực quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước.
Trung Quốc quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình ở Biển ĐôngCảnh Sảng, người phát ngôn BNG Trung Quốc
Sáu tàu bảo vệ bờ biển được trang bị vũ khí hạng nặng – hai của Trung Quốc và bốn của Việt Nam – đã ‘gườm gườm’ nhìn nhau trong các cuộc tuần tra quanh khu vực bãi Tư Chính trong nhóm đảo Trường Sa kể từ tuần trước.
Có tin khoảng một chục tàu đã hiện diện trong khu vực lân cận, theo các trang mạng theo dõi hàng hải từ hôm thứ Năm, 11/7. Diễn biến xảy ra bất chấp cam kết hồi tháng 5/2019 của các bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc và Việt Nam để giải quyết tranh chấp hàng hải bằng đàm phán.
Hôm thứ Tư tuần trước, 03/7, tàu khảo sát Địa chất Hải dương 8 của Trung Quốc đã vào vùng biển gần rạn san hô do Việt Nam kiểm soát để “thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn”, Ryan Martinson, Phó Giáo sư tại Đại học Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ tại Newport, Rhode Island, cho biết trong một thông điệp trên trang Twitter vào thứ Sáu, trích dẫn dữ liệu theo dõi tàu biển, tờ SCMP cho hay.
Các tàu hộ tống của tàu này bao gồm tàu bảo vệ bờ biển vũ trang trọng tải 12.000 tấn, số hiệu 3901, kết hợp với máy bay trực thăng và tàu bảo vệ bờ biển 2.200 tấn số có hiệu 37111.
‘Không xác nhận và khuyên hợp tác’
Hôm thứ Sáu, 13/7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã không xác nhận việc vụ đối đầu tại bãi Tư Chính, nhưng ông nói Trung Quốc quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông, tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng cho biết thêm.
Hai nước nên bảo vệ hòa bình và ổn định hàng hải bằng các hành động cụ thểChủ tịch TQ Tập Cận Bình
“Chúng tôi cũng cam kết quản lý sự khác biệt của mình thông qua các cuộc đàm phán với các quốc gia liên quan,” người phát ngôn này nói.
Trong khi đó, Chủ tịch Tập Cận Bình nói với Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến thăm của bà tới Trung Quốc tuần này rằng “hai nước nên bảo vệ hòa bình và ổn định hàng hải bằng các hành động cụ thể”.
Trước đó vào thứ Sáu, người đứng đầu Quốc hội Trung Quốc, ông Lật Chiến Thư cũng nói với Chủ tịch Quốc hội Việt Nam rằng “cả hai bên nên hợp tác với nhau về một bộ quy tắc ứng xử cho Biển Đông.”
Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam từng xuống ở mức thấp nhất trong một thập kỷ vào tháng 5/2014, khi Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc điều giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào vùng biển gần Hoàng Sa. Việt Nam đã gửi tàu đến để ngăn chặn giàn khoan này khoan xuống đáy biển, các tàu hộ tống của Trung Quốc đã đối đầu lại với các tàu việt Nam.
Bắc Kinh và Hà Nội cáo buộc nhau “cho phép tàu bè đâm đụng” vào tàu bên kia. Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra khắp Việt Nam, và ở tỉnh Bình Dương, thuộc Đông Nam Việt Nam, 14 nhà máy thuộc sở hữu của các doanh nghiệp Trung Quốc đã bị tấn công, vẫn theo báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng.
Căng thẳng giảm bớt vào tháng 7/2014, khi Trung Quốc nói giàn khoan đã hoàn thành công việc và được rút khỏi vùng biển tranh chấp.
Kể từ đó, hai nước đã nỗ lực cải thiện quan hệ. Vào tháng 5/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa đã đến thăm Hà Nội, cam kết với người đồng cấp Việt Nam rằng cả hai quốc gia sẽ duy trì sự ổn định ở Biển Đông.
Bãi Tư Chính là rạn san hô ở cực tây của Trường Sa và nằm trong phạm vi những gì Hà Nội tuyên bố là 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế. Yêu sách này bị tranh chấp bởi cả Bắc Kinh và Đài Loan, tờ báo này cho hay.
Phủ nhận cáo buộc và thách thức
Thứ sáu tuần trước, hôm 5/7, trong một diễn biến liên quan Trung Quốc ở Biển Đông, Reuters đã loan tin Trung Quốc phủ nhận cáo buộc của Hoa Kỳ về các vụ thử tên lửa ở Biển Đông
Việc này xảy ra trước và trong khi có chuyến thăm Trung Quốc của chủ tịch Quốc hội Việt Nam bà Nguyễn Thị Kim Ngân, là một thách thức trực tiếp đối với quyền lực chính trị Việt NamTiến sỹ Hà Hoàng Hợp, Iseas
Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc của Hoa Kỳ rằng quân đội Trung Quốc gần đây đã thực hiện các vụ thử tên lửa ở Biển Đông đang tranh chấp, thay vào đó họ (Trung Quốc) chỉ tổ chức các cuộc tập trận thường xuyên liên quan đến việc bắn đạn thật, vẫn theo hãng tin Anh.
Lầu Năm Góc cho biết hôm thứ ba tuần trước rằng vụ phóng tên lửa này đã gây xáo trộn và trái với cam kết của Trung Quốc rằng họ sẽ không quân sự hóa con đường giao thông trên biển có vị chí chiến lược.
Một quan chức Hoa Kỳ, phát biểu với điều kiện giấu tên, cho biết rằng theo thông tin ban đầu, Trung Quốc dường như đã thử nghiệm nhiều tên lửa đạn đạo chống hạm vào cuối tuần trước đó, vẫn theo Reuters.
Hôm 13/7, bình luận với BBC Tiếng Việt về diễn biến đang gây chú ý này ở khu vực, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp khách mời tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas của Singapore) nêu quan điểm:
“Trung Quốc đưa tàu thăm dò vào vùng quanh Tư Chính của Việt Nam là hành động vi phạm pháp luật quốc tế, vi phạm pháp luật VN và vi phạm các thảo thuận song phương về hợp tác ở biển Đông mà hai bên đã ký và công bố.
“Việc này xảy ra trước và trong khi có chuyến thăm Trung Quốc của chủ tịch Quốc hội Việt Nam bà Nguyễn Thị Kim Ngân, là một thách thức trực tiếp đối với quyền lực chính trị Việt Nam.
“Nó cho thấy Trung Quốc tự coi thường các thỏa thuận mà họ đã ký và cam kết thực hiện với Việt Nam, đồng thời coi thường giới lãnh đạo Việt Nam. Hành động đưa tàu thăm dò kể trên vào vùng Tư Chính cũng thách thức dư luận quốc tế, thách thức các nỗ lực thực thi pháp luật trên biển của tất cả các quốc gia có lợi ích ở biển Đông, có đi lại trong, qua vùng biển Đông.
Đơn lẻ hay có ý đồ?
Lúc này Trung Quốc tự coi mình là siêu cường. Nên họ có thể làm những việc bất chấp luật pháp quốc tế như một số siêu cường khác đã từng làm trước đây. Mục tiêu của TQ lúc này là tiếp tục đẩy Mỹ ra khỏi mọi nỗ lực liên quan đến biển ĐôngTiến sỹ Hà Hoàng Hợp
Trước câu hỏi liệu đây chỉ là một sự kiện xảy ra đơn lẻ, hay nằm trong một chỉnh thể ý đồ của một bên nào đó, để có thể gây tác động tới an ninh, chính trị, bang giao quốc tế ở khu vực, hoặc đơn giản là đem lại lợi thế cho chính trị nội bộ trong quốc gia của bên đó, nhà nghiên cứu chính trị và quan hê quốc tế Hà Hoàng Hợp đáp:
“Đây không phải là hành động đơn lẻ. Đây là một loại hành động được tính toán kỹ lưỡng của Trung Quốc nhằm khằng định trên thực địa tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn biển Đông (giới hạn bởi đường Lưỡi Bò hay còn gọi là đường 9 khúc).
“Như tất cả đã biết, lúc này Trung Quốc tự coi mình là siêu cường. Nên họ có thể làm những việc bất chấp luật pháp quốc tế như một số siêu cường khác đã từng làm trước đây. Mục tiêu của Trung Quốc lúc này là tiếp tục đẩy Mỹ ra khỏi mọi nỗ lực liên quan đến biển Đông.
“Nói cách khác, Trung Quốc muốn xây dựng một hình thái quan hệ nước lớn kiểu mới với Mỹ như chính họ nói, cụ thể hóa việc chia sẻ quyền lực và ảnh hưởng ở châu Á – Thái Bình dương, trước hết bắt đầu từ biển Đông.
“Việc làm này nhất quán với chính sách của Trung Quốc từ năm 2001, 2002, khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với phần đường Lưỡi Bò.”
Đánh giá về phản ứng của phía Việt Nam trong diễn biến căng thẳng mới xảy ra, người đồng thời là thành viên nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS – Anh quốc), nói:
“Phản ứng của Việt Nam lần này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với nội dung DOC mà Trung Quốc đã ký với Asean, hành động của các tàu cảnh sát biển VN lần này tương đối nhẹ nhàng.
“Cảnh sát biển Việt Nam liên lạc với phía Trung Quốc yêu cầu rút tàu thăm dò khỏi vùng biển Việt Nam có chủ quyền. Các tàu cảnh sát biển Việt Nam đang tự kiềm chế, chưa sử dụng quyền của mình để áp chế tàu vi phạm TQ phải rút.”
Cảnh sát biển Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp hợp pháp mạnh mẽ hơn, nếu phía Trung Quốc không đáp ứng yêu cầu hợp pháp của Việt Nam, vẫn theo nhà nghiên cứu này và ông lưu ý thêm:
“Nên nhớ là bộ quy tắc CUES chỉ áp dụng cho hải quân, cho nên, khả năng va chạm với tàu cảnh sát biển rất cao, vì không có quy tắc nào. Nhìn về bản chất, đây là sự kiềm chế của cảnh sát biển Việt Nam,” Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp nói với BBC News Tiếng Việt từ Hà Nội hôm 13/7.
0 comments