Tin Biển Đông – 15/07/2019
Một tuần căng thẳng ở bãi Tư Chính
Suốt một tuần qua tại cum bãi cạn san hô Tư Chính của Việt Nam đã xảy ra căng thẳng. Theo nguồn tin của BDN có 6 tàu hải giám đã quần thảo ở khu vực này trong tình huống khá căng thẳng nhưng chưa xảy ra đụng độ lớn.
Rất bất ngờ là Trung Quốc đã chào đón chuyến thăm Trung Quốc của bà Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân bằng hành động rất đáng chê trách này.Có trang báo mạng nói rằng đây là Bắc Kinh đang tổ chức “đại hội té nước” để chào mừng “bạn” Việt Nam ghé thăm.
Trước hết phíaViệt Nam từ lâu tuyên bố rằng, bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa phía nam. Bãi này chưa bao giờ thuộc quần đảo Trường Sa. Hà Nội bác bỏ sự cố tình hay tùy tiện cho rằng bãi này thuộc quần đảo Trường Sa. Ngược lại, Bắc Kinh tuyên bố, Thị Tứ thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc (tức Trường Sa của Việt Nam). Và vì thế trong nhiều năm qua Khu vực bãi Tư Chính đã âm ỉ ngọn lửa tranh chấp. Lần này Việt Nam tỏ ra kiên quyết hơn, dũng cảm và cũng khôn khéo hơn khi có tới 4 tàu cảnh sát biển, sàng “bóp nát” 2 tàu hải giám trọng tải lớn của Trung Quốc.
Việt Nam đặt 3 nhà giàn và 2 hải đăng tại bãi Tư Chính.
Những năm qua Trung Quốc thường xuyên sử dụng tàu nghiên cứu, tàu cải dạng, tàu chiến vào thăm dò địa chấn, trinh sát, quấy rối, vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Nhiều tàu cá Trung Quốc, Hồng Công, Philippines, đánh bắt trái phép hải sản khu vực này. Hoạt động của tàu nước ngoài tập trung nhiều vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9 tháng 10, là những thời điểm sóng yên, biển lặng. Bởi vậy, công tác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các nhà trạm Tư Chính rất căng thẳng, đặt ra yêu cầu rất cao.
Hải quân Việt Nam đã từng nổ súng cảnh cáo, xua đuổi tàu Trung Quốc âm mưu thăm dò và khai thác dầu trái phép tại đây dưới danh nghĩa liên doanh dầu khí Trung – Mỹ. Hồi năm 1992Trung Quốc dựng nhà giàn bất hợp pháp, rồi đến năm 1994 liên doanh Trung – Mỹ đưa tàu thăm dò vào khu vực này. Nhưng cả hai lần quân đội Trung Quốc đều phải rút. Bộ đội Hải quân Việt Nam đã chủ động, kiên quyết nổ súng cảnh cáo, sẵn sàng bảo vệ vùng biển của mình, không để bất ngờ.
Mới nhất là vào tháng 7 năm 2017, phía Việt Nam bị Trung Quốc gây áp lực phải hủy bỏ hoạt động thăm dò mỏ khí lớn tại lô 136-03 (Vạn An Bắc 21) do Công ty Talisman-Vietnam (công ty mẹ là Repsol Tây Ban Nha) khi công việcmới được thực hiện cách đó một tháng. Đối tác này được bị yêu cầu rời khỏi khu vực, mặc dù họ đã đầu tư khoảng 300 triệu USD vào thương vụ này. Trung Quốc đã đe dọa tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam không chịu hủy dự án khai thác tại lô 136-03.
Những ngày qua hải quân Việt Nam thể hiện sự dũng cảm, thông minh trong những đụng độ đang xảy ra tại bãi Tư Chính. Trong khi tàu Trung Quốc thể hiện sự hung hăng dùng sườn tàu lớn húc vào mũi tàu Việt Nam thì bất ngờ tàu chấp pháp Việt Nam liên tục tạt đầu đối phương (không cần bật xi- nhan), khiến tàu Trung quốc bát ngờ vội vàng chuyển hướng. Trong khi đóhệ thống loa tuyên truyền về chủ quyển biển đảo trên tàu chấp pháp Việt Nam liên tục phát đi những thông tin về đảo Tư Chính, về chủ quyền của Việt Nam ở v ùng thềm lục địa này, yêu cầu không một thế lực nào có thể xâm chiếm, uy hiếp công việc bình thường của ngư dân nơi đây.
Nhũng này tới tình hình tại khu vực có thể còn căng thẳng. Các lực lượng làm nhiệm vụ ở đây đã sẵn sàng cho mọi tình huống, luôn ở thế chủ động, tấn công, nhưng cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của đối phương, không dễ bị mắc lừa.
Về sự kiện này, hôm thứ sáu tuần trước ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc khôn khéo không nói gì đến những vụ đe dọa đâm va tàu mà chỉ nói rằng, Trung Quốc luôn luôn sẵn sàng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của mình.
Tất cả các hành động của Bắc Kinh không thể đánh lạc hướng dư luận. Vì mục tiêu làm chủ thiên hạ thì phải làm chủ biển Đông mà họ sẵn sàng gây hấn trên biển. Nhưng Việt Nam và các nước trong khu vực đã quá quen với những lời nói và hành động của họ. Hà Nội cũng phòng xa những âm mưu gây rối ở bãi Tư Chính, có thể chỉ là trận giả để Bắc Kinh làm những việc khác ở một nơi khác với một chiến lược, một mưu đồ “bắt chuột” lớn hơn nhiều.
Tàu Cảnh sát biển Việt Nam và TQ
đối đầu ở Bãi Tư Chính
Có ít nhất 2 tàu hải cảnh Trung Quốc và 4 tàu Cảnh sát biển Việt Nam đang đối đầu với nhau ở Bãi Tư Chính trong khoảng một tuần qua, nơi Việt Nam có nhà giàn DK1 do Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Thông tin này được mạng báo Bưu điện Hoa Nam Buổi Sáng (South China Morning Post – SCMP) đăng tải vào chiều 12/7.
Mạng báo tiếng Anh có trụ sở ở Hồng Kông trích dẫn đoạn Tweet của ông Ryan Martinson – Trợ lý giáo sư tại Trường Hải Chiến Mỹ cho hay, hôm 3/7, tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc mang tên Haiyang Dizhi 8 (Marine Geology 8) đã đi vào vùng biển gần rạn san hô do Việt Nam kiểm soát để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn.
Ông Ryan Martinson đăng tải ảnh chụp màn hình về thông tin theo dõi dữ liệu tàu trong một tweet hôm 11/7 chỉ ra, khu vực trên có sự xuất hiện của các tàu hộ tống tàu thăm dò Trung Quốc gồm tàu bảo vệ bờ biển vũ trang 12 ngàn tấn số hiệu 3901 mang theo trực thăng và tàu 2.200 tấn số hiệu 37111.
Trong khi đó, sáng 11/7, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các thành viên Chính phủ đột nhiên đi thăm Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và nói chuyện qua điện thoại vệ tinh với các chiến sĩ làm việc trên các tàu CSB 4031, 4034, 9001, 8002, 4038, 4039.
Theo SCMP, cuộc đối đầu có thể dẫn đến đụng độ lớn nhất trên Biển Đông trong vòng 5 năm trở lại đây và có thể kích động làn sóng chống Trung Quốc chưa từng thấy ở Việt Nam kể từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 kéo vào vùng biển nước này.
Theo Wikipedia, Bãi Tư Chính là một cụm rạn san hô ở phía nam Biển Đông mà Việt Nam cho lắp đặt các cấu trúc thép có tên là nhà giàn DK1 và giao cho Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Việt Nam tuyên bố bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa phía nam, không thuộc quần đảo Trường Sa và bác bỏ sự gán ghép bãi này vào quần đảo Trường Sa.
Đài Loan và Trung Quốc quan niệm bãi này thuộc quần đảo Nam Sa. Khu vực bãi Tư Chính đã nhiều lần là đối tượng tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Năm 1994, tàu vũ trang Việt Nam đã buộc tàu thăm dò Shiyan 2 rời đi sau 3 ngày đối đầu.
Hiện phía Việt Nam cũng như Trung Quốc chưa có bình luận gì về vụ việc này.
Vào ngày 11 tháng 7, ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có cuộc làm việc với Bộ Tư Lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam và lên tiếng cho rằng cơ quan này không được để bị động, bất ngờ trước các tình huống xảy ra trên biển.
Cũng vào chiều ngày 11 tháng 7, tại cuộc gặp ở Bắc Kinh giữa bà chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân với ông chủ tịch Nhân Đại Trung Quốc Lật Chiến Thư hai phía lặp lại cám kết sẽ tiếp tục tuân thủ nhận thức chung của hai lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước ‘thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc’.
Biển Đông đang trở thành căn cứ quân sự ra sao?
Theo Wall Street Journal ngày 9-4-2019, Trung Quốc năm nay còn thiết lập các hệ thống gây nhiễu thông tin liên lạc và rađa trên hai đá Vành Khăn và Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa.
3 năm sau ngày Tòa trọng tài ra phán quyết xác định “không thực thể nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra những vùng biển mở rộng…”, vào cuối tháng 6 và đầu tháng 7-2019, Trung Quốc đã tập trận quy mô lớn ở phía bắc quần đảo Trường Sa và bắn thử tên lửa từ những thực thể nhân tạo họ bồi đắp trái phép.
Từ phía truyền thông Trung Quốc, xuất hiện những ý kiến cho rằng do Mỹ cùng một số nước phương Tây khác mà Trung Quốc buộc phải “bảo vệ chủ quyền”?!
Như mọi lần tập trận trước, Cục Hải sự Trung Quốc thông báo nước này bắt đầu tập trận trong một tuần, từ ngày 29-6 đến 3-7, tại khu vực rộng khoảng 22.000km2, cách quần đảo Trường Sa của Việt Nam khoảng 50 hải lý về phía bắc. Cục Hải sự Trung Quốc cảnh báo các tàu thuyền hoạt động gần đó không được vào khu vực tập trận.
Chủ động ra tay
Tất nhiên, những hoạt động quân sự như thế đều được các nước quan tâm theo dõi bằng nhiều cách. Từ Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rõ: “Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề này”.
Từ phía truyền thông quốc tế, như nhiều lần trước, lần này, hãng tin Mỹ CNN tiếp tục đóng vai trò phổ biến thông tin, hình ảnh về các hoạt động của Trung Quốc.
Hôm 21-6, CNN công bố hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã triển khai ít nhất 4 máy bay chiến đấu J-10 ra đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. CNN trích phân tích của các chuyên gia cho thấy khả năng Trung Quốc sẽ duy trì các máy bay này tại đây lâu dài.Hãng tin Mỹ dẫn lời Carl Shuster – cựu giám đốc tình báo liên quân của Bộ chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ – nói hình ảnh vệ tinh cho thấy các máy bay J-10 trong tư thế đậu toàn cảnh (chứ không lấp ló) để “chứng minh đó là lãnh thổ Trung Quốc và Trung Quốc có thể đặt máy bay quân sự ở đó bất cứ khi nào họ muốn”, đồng thời nhằm gián tiếp khẳng định “Trung Quốc có thể mở rộng phạm vi sức mạnh không quân trên Biển Đông theo yêu cầu hoặc tùy ý”.
Cũng theo CNN, một nhóm tác chiến hải quân do tàu sân bay duy nhất của Trung Quốc dẫn đầu cũng đang tuần tra Biển Đông.
Đây không phải lần đầu trong năm nay Trung Quốc phô diễn sức mạnh như vậy, với mục đích cụ thể là nhắm vào Đài Loan. Hôm 5-5, nhà chức trách tỉnh Chiết Giang thông báo cấm tàu thuyền hoạt động và đánh bắt cá ở khu vực đến tối 10-5, tuyên bố đây là một phần trong “kế hoạch tập trận thường xuyên hằng năm” của Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc (PLA) và sẽ có “sử dụng vũ khí thực tế”.
Cuộc tập trận quy mô đó cũng không phải lần đầu ở Biển Đông trong năm nay: hạ tuần tháng 2-2019, báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng (SCMP) của Hong Kong loan tin nhiều loại chiến hạm mới nhất của Trung Quốc thuộc hạm đội Nam Hải – gồm các tàu trang bị tên lửa dẫn đường Hợp Phì và Vận Thành, tàu tấn công đổ bộ Trường Bạch Sơn – đã tham gia cuộc tập trận kéo dài hơn một tháng bắt đầu từ ngày 16-1.
Trong 34 ngày tập trận, các lực lượng phối hợp tiến hành 20 khoa mục tập trận bắn đạn thật khác nhau…
Giới quan sát quân sự cho rằng các cuộc tập trận của Trung Quốc cho thấy PLA muốn thử nghiệm hệ thống điều khiển sẽ được sử dụng khi xảy ra chiến tranh, đồng thời “củng cố khả năng phòng vệ” bằng tên lửa trên Biển Đông.
Đáng lưu ý chi tiết các binh sĩ đóng quân tại nhiều đảo do Trung Quốc đang kiểm soát trái phép trên Biển Đông cũng đã tham gia hoạt động này và theo SCMP, PLA muốn điều động cố định lên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam các tên lửa phòng không HQ-9 và tên lửa chống hạm YJ-12B.
Song Zhongping (Tống Trung Bình), một chuyên gia phân tích quân sự từng làm việc cho binh chủng tên lửa của PLA, nhận xét rằng các đợt tập trận mới nhất của Trung Quốc cho thấy PLA đang cố gắng hợp nhất hoạt động của các đơn vị quy ước và chiến thuật của lực lượng tên lửa với quân khu miền nam, vốn là chiến khu giám sát Biển Đông.
Mẫu số chung của hai cuộc tập trận là điều động các khí tài hạng nặng ra đặt cố định lâu dài trên những đảo bị bồi lấp và chiếm đóng trái phép. Để tiện hình dung nguy cơ của động thái này, có thể lấy thí dụ các máy bay J-10 triển khai trên đảo Phú Lâm. Ra đời từ năm 1998, đây không phải là một dòng máy bay chiến đấu đời mới.
Mạng Sina cho biết: “Từ khi ra đời, J-10 đã rất tham vọng và nhận được nhiều sự chú ý… Là máy bay chiến đấu nội địa thế hệ thứ ba, nhiệm vụ của nó là bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới… Là sự kế thừa của sự kế thừa, với MiG-29 và Su-27 là mục tiêu chính…”.
Khoảng cách tối đa (tuyến đường được xác định trước mà một chiếc máy bay rời căn cứ, thực hiện nhiệm vụ rồi trở về mà không cần tiếp nhiên liệu) của J-10 là 1.250km. Khoảng cách “trung bình” từ đất liền ra quần đảo Hoàng Sa là 315km; cho thấy J-10 không lo đường về khi chiến đấu trên bầu trời khu vực quần đảo Hoàng Sa mà từ năm 2012, Trung Quốc đã ngang nhiên biến thành “thành phố Tam Sa”.
Không dừng ở đó, theo Wall Street Journal ngày 9-4-2019, Trung Quốc năm nay còn thiết lập các hệ thống gây nhiễu thông tin liên lạc và rađa trên hai đá Vành Khăn và Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa.
Vì bực Mỹ hay để hiếp người?
Với chừng đó động thái, sự thật hiển nhiên là Trung Quốc đã thiết lập xong một chu vi A2/AD (“anti-access/area denail”, tức “chống tiếp cận, chống xâm nhập”) bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Song song, Mỹ đã tăng cường tần suất các chuyến FONOP (“freedom-of-navigation operation”, tức “chiến dịch tự do hàng hải”) trong phạm vi 12 hải lý một số đảo ở Hoàng Sa, từ rải rác sang hầu như hằng tháng trong năm 2019 này.
Trước tình hình đó, nhất thiết phải đặt ra những câu hỏi chính xác.
Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là Trung Quốc quân sự hóa lâu dài các đảo và thực thể nhân tạo trên Biển Đông do “bực” Mỹ “khiêu khích” bằng các chuyến FONOP, hay Mỹ tăng cường FONOP là do Trung Quốc quân sự hóa Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng đến ngưỡng đe dọa? Để sống còn trong chính khu vực đầy “o ép” này, cần nhìn chính xác để thấy điều gì là nhân, điều gì là quả?
Nếu không nhìn và thấy, sẽ dễ nhắm mắt nhất trí một cách vô thức với tuyên bố của Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa ở Đối thoại Shangri-la vừa rồi, rằng Trung Quốc có quyền lắp đặt vũ khí trên các đảo nhân tạo để đối phó với các mối đe dọa ở Biển Đông.
“Ăn cây nào, rào cây đó”, viên tướng họ Ngụy có quyền phát biểu bảo vệ đất nước của ông: “Tôi nghĩ rằng sự phát triển của quân đội Trung Quốc sát với tâm tư của nhiều người và điều họ quan tâm nhất là liệu Trung Quốc có muốn tìm kiếm quyền bá chủ bằng cách phát triển quân đội hay không. Tôi muốn làm cho rõ và tôi muốn mời quý vị suy nghĩ: Trung Quốc đã xâm chiếm ai chưa?
Kể từ khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chúng tôi chưa bao giờ chủ động đưa quân ra giao chiến với nước khác. Những cuộc chiến tranh buộc chúng tôi phải chiến đấu là để bảo vệ chủ quyền của chúng tôi, và chúng tôi chưa bao giờ lấy một tấc đất nào của nước khác. Câu hỏi thứ hai là: ai bị Trung Quốc đe dọa?
Trung Quốc là một quốc gia lớn, nhưng chúng tôi không bắt nạt các nước nhỏ hoặc yếu hơn bằng quy mô hoặc sức mạnh của chúng tôi. Trung Quốc là quốc gia duy nhất cam kết không sử dụng vũ khí hạt nhân trước. Chúng tôi kiên trì khẳng định rằng các vấn đề không nên được giải quyết thông qua sử dụng hoặc đe dọa vũ lực.
Những gì chúng tôi có được ngày hôm nay, chúng tôi đâu có đạt được bằng bành trướng quân sự hay thực dân. Ai là kẻ sử dụng các cách đó để có được ngày hôm nay?”.
Phát biểu đó có thể “nghe được” với các đồng hương của ông, cũng như với những ai quá lo sợ về một cuộc đụng độ không kiềm chế Trung – Mỹ ở Biển Đông. Nhưng cách suy nghĩ bàng quan như thế, cứ như đây chỉ là chuyện giữa “trâu bò”, nên “ruồi muỗi” khôn hồn thì “tránh xa” kẻo “chết”, không khỏi khiến người ta nhớ lại lối suy nghĩ cách đây 5 năm: “tại ông Obama bày đặt ‘xoay trục’, nên Bắc Kinh mới…”.
Vậy sai lầm của cách nghĩ này là ở đâu? Cần thấy, có sự khác biệt giữa “tránh xa”, không “kéo bè, hiệp đảng” với bàng quan, quên mất rằng tất cả những tên lửa, máy bay, hệ thống gây nhiễu rađa, quân đội đồn trú… ở Biển Đông đều là mối đe dọa trực tiếp với chính các nước “nhỏ hoặc yếu hơn”, vốn đang bị hiếp đáp bằng đủ cách, từ ra tối hậu thư buộc các công ty dầu khí kéo giàn khoan “đi chỗ khác chơi” đến bao vây, húc cho chìm tàu và bỏ mặc ngư dân nước khác…
3 năm sau phán quyết
Ngày 7-6 vừa qua, kỷ niệm 3 năm ngày Tòa trọng tài The Hague ban hành phán quyết về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, hội thảo quốc tế “Tranh chấp Biển Đông diễn tiến ra
sao sau phán quyết của Tòa trọng tài La Haye?” đã diễn ra tại Câu lạc bộ báo chí Thụy Sĩ ở thành phố Geneva, Thụy Sĩ.
Luật sư Pierre Schifferli (Thụy Sĩ) khai mạc hội thảo bằng phát biểu: “Trong kỷ nguyên hiện đại, Trung Quốc là quốc gia hưởng lợi lớn nhất của các quy tắc được thiết kế để thúc đẩy an ninh và mở cửa kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, Trung Quốc đang sử dụng thanh thế ngày càng tăng của mình để loại bỏ hoặc thay đổi các quy tắc này tùy ý mình, tìm cách tiếp cận các vấn đề về biển theo kiểu ‘sức mạnh chính là lẽ phải’”.
Những hội thảo như thế là câu trả lời cho những suy nghĩ cho rằng phán quyết của Tòa trọng tài là “tờ giấy lộn” bởi thiếu cơ chế thi hành án. Cho dù ai đó muốn hay không muốn, Tòa trọng tài quốc tế theo Phụ lục VII, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) cũng đã phán quyết ngày 12-7-2016 có giá trị ràng buộc đối với các bên liên quan là thành viên công ước, và là một tiền lệ có lợi không chỉ cho Philippines, mà còn cho cộng đồng khu vực và quốc tế.
Vấn đề đặt ra là làm sao để phán quyết có ý nghĩa thượng tôn pháp luật, góp phần duy trì, phát huy hiệu lực của UNCLOS, trước hết là bằng việc không tự bôi xóa các phán quyết hay tự đồng hóa với cách giải thích và yêu sách của Trung Quốc.
0 comments