Việt Nam không có ý định quân sự hóa Biển Đông và cải tạo đảo
Ngày 8/4, Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm nghiên Chiến lược Quốc tế CSIS ở Washington (Mỹ) công bố tài liệu cho rằng Việt Nam tiếp tục nâng cấp các cơ sở vật chất ở quần đảo Trường Sa mặc dù rõ ràng không vấp phải những phản ứng mà các lực lượng quân sự hàng hải của Trung Quốc cũng như của Philippines phải đối mặt gần đây.
Theo AMTI, Việt Nam đã “âm thầm” nâng cấp việc xây dựng các cơ sở vật chất ở quần đảo Trường Sa nhưng không có ý định quân sự hóa trên vùng Biển Đông như Trung Quốc; cho rằng Việt Nam hiện đang “chiếm cứ” 49 tiền đồn trải rộng trên 27 thực thể xung quanh quần đảo Trường Sa. Trong số các thực thể trên, chỉ có 10 có thể được gọi là đảo nhỏ trong khi phần còn lại là các bãi đá ngầm nằm bên dưới mặt nước. AMTI nhận định Việt Nam “đã tiến hành mở rộng” Trường Sa - tiền đồn lớn nhất và là trung tâm hành chính của Việt Nam trong khu vực Biển Đông - “để kéo dài một đường băng nhỏ cũng như tạo nên một cảng được bảo vệ.”
Đáng chú ý, AMTI so sánh với những khảo sát được công bố vào giữa năm 2017, cho rằng Việt Nam đã tạo ra khoảng 40 acre (hơn 16 hecta) đất mới trong quần đảo Trường Sa bằng việc “sử dụng các thiết bị xây dựng để nạo vét các phần của bãi ngầm xung quanh đảo Trường Sa và phủ cát lên đó. Quy trình này mất nhiều thời gian hơn nhưng ít gây hại tới môi trường hơn các phương pháp của Trung Quốc, trong đó sử dụng việc nạo vét theo quy mô công nghiệp và vùi chôn trong đất trên các cơ sở của họ trong quần đảo Trường Sa”.
AMTI cho biết, việc nâng cấp của Việt Nam bao gồm hoàn tất đường băng, việc xây dựng các cơ sở liên lạc và các kênh thoát nước. Dù có các yếu tố ngoại cảnh giữa lúc có những đàm phán và những căng thẳng cũng như mối hiểm họa bạo lực, thì dường như Hà Nội vẫn kiên trì mở rộng từng tí một các khả năng trên và xung quanh quần đảo Trường Sa.
Đáng chú ý, khảo sát của AMTI còn cho biết rằng “Việt Nam không có ý định quân sự hóa các thực thể với quy mô lớn như của Trung Quốc.” AMTI cũng nói rằng “không có dấu hiệu nào cho thấy các cơ sở được xây dựng để chứa các máy bay tấn công.” Thay vào đó, những nâng cấp của Việt Nam dường như hướng đến việc mở rộng khả năng theo dõi và tuần tra của họ trên vùng biển có tranh chấp và cải thiện các điều kiện cũng như đảm bảo rằng họ có thể tái cung ứng bằng đường không khi cần thiết.
Quần đảo Trường Sa là tiền đồn lớn nhất của Việt Nam và là trung tâm hành chính chứng tỏ sự hiện diện trong khu vực của mình. Trong năm 2015-2016, Việt Nam đã tiến hành mở rộng hòn đảo để mở rộng đường băng nhỏ. Tổng cộng, Hà Nội đã mở rộng thêm 40 mẫu đất mới, từ 750 mét thành 1,300 mét qua việc nạo vét một phần của rạn san hô quanh đảo và đổ cát lên đảo. Vào khoảng giữa năm 2017, Việt Nam đã hoàn thành hai khu nhà xưởng chứa máy bay lớn ở hai đầu đường băng. Trong đó có bốn khu với mục đích dùng để chứa máy bay giám sát hàng hải Việt Nam PZL M28B và máy bay vận tải CASA C-295 hoặc các thiết bị tương tự có được trong tương lai. Ngoài quần đảo Trường Sa, Việt Nam đã thực hiện một số cải tiến khiêm tốn tại khu vực nhỏ chiếm trên đảo Phan Vinh (Pearson Reef), một đảo san hô thuộc quần đảo Trường Sa. Chẳng hạn, kể từ giữa năm 2017, một radar lớn đã được lắp đặt trên đỉnh một tòa nhà ở phía Tây của đảo nhỏ, cho thấy sự cải thiện về tín hiệu hoặc khả năng liên lạc. Việc trồng cây xanh trên các khu vực bãi rác nhân tạo, có lẽ để tránh xói mòn, cũng đã hoàn tất.
Trên thực tế, những hoạt động trên của Việt Nam chỉ đơn thuần nhằm cải thiện môi trường sống của quân nhân đóng trên đảo và tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân vào tránh bão, áp thấp nhiệt đới khi cần thiết, cụ thể:
Thứ nhất, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hợp pháp và được luật pháp quốc tế bảo vệ. Ngoài ra, Việt Nam là một nước gương mẫu, luôn thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp quốc tế về biển đảo, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Thứ hai, hành động của Việt Nam mang tính tích cực, chỉ nhằm cải thiện đời sống, an toàn tính mạng cho quân nhân đóng trên quần đảo Trường Sa (khi biển động, sóng biển đánh vào sát nơi binh sỹ đang đóng quân và chỗ sinh hoạt của binh sỹ rất eo hẹp) và là nơi tránh bão, áp thấp nhiệt đới cho ngư đân Việt Nam cũng như ngư dân các nước đang đánh cá hợp pháp trên Biển Đông. Hành động này góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông và khu vực.
Thứ ba, Việt Nam chỉ sử dụng tàu nhỏ, hút trầm tích san hô đã chết để khơi thông luồng, rạch, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu tiếp tế và tàu cá của ngư dân ra vào đầm phá thuận tiện, an toàn.
Thứ tư, việc náo hút của Việt Nam được tiến hành một cách từ từ, không sử dụng các công cụ chuyên dụng như máy cắt, máy dung, máy phá rạn san hô (cách mà Trung Quốc tiến hành ở 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa), những hoạt động trên không hề đe dọa hay phá hủy môi trường sinh thái ở Biển Đông.
Thứ năm, tất cả những hoạt động nâng cấp một số nhà ở, hay xây kè chắn trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam là nhằm chắn sóng biển, không để cát và rác rơi xuống biển, ảnh hưởng môi trường xung quanh. Ngoài ra, nguyên vật liệu xây dựng (từng viên gạch, hòn sỏi) đều được Việt Nam vận chuyển từ trong nước ra.
Ngoài ra, hoạt động của Việt Nam phần nào đó góp phần nâng cao năng lực phòng thủ chống lại các mối đe dọa, điều này là quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Việt Nam cũng như các nước khác ven Biển Đông. Việc này giống như Indonesia tăng cường phòng thủ Natuna, Malaysia tăng cường phòng thủ ở Sabah, Sarawak và Biển Đông và Philippines cho phép Mỹ sử dụng 5 căn cứ quân sự trên lãnh thổ.
Hoạt động cải thiện nơi sinh sống và tránh bão của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa khác so với hoạt động cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo và tiến hành quân sự hóa của Trung Quốc tại 7 đá, bãi cạn chiếm đóng phi pháp từ Việt Nam.
Theo AMTI, trong nhiều năm qua, Việt Nam mới chỉ bồi đắp thêm khoảng 120 mẫu Anh trên 10 đảo nhỏ, trong khi đó Trung Quốc đã bồi đắp hơn 3.200 mẫu Anh trên 7 thực thể ở quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Bắc Kinh còn xây dựng các cảng, hải đăng, đường băng, bệnh viện, sân chơi thể thảo, lắp đặt radar, triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa, pháo… ra 7 đảo nhân tạo. Điều này cũng được Giáo sư Carl Thayer công nhận khi cho rằng, “hoạt động xây cất của Việt Nam không chỉ nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc mà còn ít phá hoại môi trường (không nạo vét quy mô lớn các rạn san hô) và các hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam chỉ bằng 4% tổng diện tích Trung Quốc “cải tạo đảo”.
Trong quá trình cải tạo phi pháp, Trung Quốc đã sử dụng các máy hút bùn công suất lớn (họ thường dùng những tàu có trọng tải lớn, có công suất hút lên đến 6.000 m3 đất, cát mỗi giờ từ độ sâu 35 m), nạo vét các rặng san hô xung quanh để tạo thành các đảo nhân tạo. Sau đó, Trung Quốc đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự và dân sự trên các đảo nhân tạo, biến khu vực này thành những căn cứ quân sự kiên cố của Bắc Kinh. Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc đã phá hủy gần như toàn bộ môi trường sinh thái xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tính đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc đã biến 7 bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross), Xu Bi (Subi), Vành Khăn (Mischief), Gạc Ma (Johnson South), Châu Viên (Cuarteron), Ga Ven (Gaven) và Tư Nghĩa (Hughes) thành các đảo nhân tạo với chi phí hàng trăm tỷ USD. Đáng chú ý, tổng số diện tích 15 đảo tự nhiên thuộc quần đảo Trường Sa là 1.828 km² trong khi đó tổng diện tích các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây là 12 km² (khoảng 1,300 hecta). Tính riêng đá Chữ Thập, Trung Quốc đã cải tạo phi pháp lên đến 2.74 km², Bắc Kinh cũng đã xây trên các đảo nhân tạo này một bệnh viện, 3 đường băng dài 3.000m, 5 ngọn hải đăng và nhiều căn cứ quân sự khác.
Tóm lại, hoạt động của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa không thể gọi là cải tạo đảo, nó chỉ mang tính chất cải thiện môi trường sống của binh lính đồn trú trên đảo và khơi thông luồng, lạch tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền của ngư dân vào tránh bão khi cần thiết. Những hoạt động như vậy hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS.
0 comments